TCTC ky 1 thang 11-2016 - page 77

TÀI CHÍNH -
Tháng 11/2016
79
trình độ nhân viên thực hiện công việc kế toán.
Mục tiêu, chiến lược của doanh nghiệp
và nhu cầu từ phía nhà quản trị
Xây dựng kế hoạch về chi phí hoạt động của DN
đồng nghĩa với việc xác định các mục tiêu và xây
dựng chiến lược để đạt mục tiêu đó. Đây chính là
nhân tố mấu chốt mà nhà quản trị cần tính tới để tổ
chức hệ thống thông tin KTQT chi phí. Các mục tiêu
phải được quán triệt ở mọi lĩnh vực chức năng cho
tới người có trách nhiệm cao nhất. Các chiến lược
xây dựng phải kết hợp được các nguồn lực và năng
lực của DN để đạt được các mục đích trong những
điều kiện tốt nhất.
Mặt khác, hệ thống thông tin KTQT chi phí trong
các DN được thiết lập và tồn tại hay không phụ thuộc
vào nhu cầu thông tin KTQT chi phí từ phía nhà quản
trị DN. Mọi hệ thống đều có mục tiêu. Tính mục tiêu
của toàn bộ việc xây dựng hệ thống thông tin KTQT
chi phí được thể hiện thông qua việc xác định nhu
cầu thông tin quản trị. Nó làm nổi bật vai trò của
thông tin là một phương tiện quản lý, một sự trợ giúp
cho việc ra quyết định. Trong xây dựng và thực hiện
các chiến lược ngắn hạn, dài hạn, nguồn thông tin do
hệ thống kế toán cung cấp đặc biệt là các thông tin chi
phí đóng vai trò hết sức quan trọng.
Tuy nhiên hiện nay, nhu cầu thông tin KTQT chi
phí từ phía nhà quản trị DN chưa thực sự rõ ràng.
Hầu hết các nhà quản trị ra quyết định đều dựa trên
kinh nghiệm và thói quen quản lý nên khó có thể
kiểm soát được chi phí và kết quả kinh doanh. Đây
là một bằng chứng cụ thể chỉ rõ nguyên nhân dẫn
đến việc tổ chức hệ thống thông tin KTQT chi phí
trong các DN còn nhiều tồn tại và hạn chế.
Đặc điểm tổ chức sản xuất
Tổ chức sản xuất trong DN là sự kết hợp chặt chẽ
giữa sức lao động và tư liệu sản xuất cho phù hợp
với nhiệm vụ, quy mô và công nghệ sản xuất. Tổ
chức sản xuất nhằm trả lời câu hỏi thứ hai của nền
kinh tế đó là sản xuất như thế nào? Tổ chức sản xuất
cho thấy rõ hình thức tổ chức của quá trình sản xuất,
tính chất phân công lao động giữa các bộ phận sản
xuất và phục vụ sản xuất, đặc điểm của sự kết hợp
lao động với tư liệu lao động và đối tượng lao động
trong quá trình sản xuất. Bên cạnh đó, tổ chức sản
xuất còn là việc chỉ ra cách thức bố trí các bộ phận
sản xuất: Có thể tổ chức theo hình thức công nghệ,
mỗi phân xưởng chỉ thực hiện một loại công nghệ
nhất định, chẳng hạn như phân xưởng dệt, phân
xưởng may, phân xưởng đóng gói; cũng có thể tổ
chức sản xuất theo đối tượng, mỗi phân xưởng chỉ
thực hiện chế tạo một loại sản phẩm hay một loại
chi tiết nhất định. Ví dụ như phân xưởng cắt, phân
xưởng in phun, phân xưởng may thời trang, phân
xưởng gia công…; hoặc tổ chức theo hình thức kết
hợp cả hai cách trên.
Nghiên cứu có thể thấy rằng, đặc điểm tổ chức
sản xuất là nhân tố ảnh hưởng quan trọng đến công
tác tổ chức hệ thống thông tin KTQT chi phí, bởi vì
đặc điểm tổ chức sản xuất sẽ quyết định mô hình
kế toán chi phí; Phương pháp quản lý chi phí; Đối
tượng tập hợp chi phí; Phương pháp và tiêu thức
phân bổ chi phí chung. Trong quá trình xử lý thông
tin của KTQT chi phí, mối quan hệ giữa bộ phận kế
toán và các bộ phận quản lý, bộ phận sản xuất kinh
doanh khác là rất cần thiết, đặc biệt là trong việc
thiết lập những thông tin phi tài chính và các thông
tin hướng về tương lai.
Công nghệ kỹ thuật
và trình độ nhân viên thực hiện công việc kế toán
Khối lượng thông tin mà KTQT chi phí phải xử
lý và chuyển thành các thông tin có ích là rất lớn.
Quá trình xử lý thông tin cần có sự kết hợp nhiều
phương pháp kỹ thuật phức tạp. Do đó, cơ sở vật
chất với hệ thống máy vi tính và các phần mềm xử
lý thông tin là rất cần thiết trong quá trình tổ chức
hệ thống thông tin kế toán. Bên cạnh đó, trình độ
kiến thức và kỹ năng làm việc của nhân viên KTQT
cũng có tác động không nhỏ đến chất lượng của hệ
thống thông tin KTQT chi phí. Yêu cầu của đội ngũ
này phải am hiểu sâu sắc về quá trình tổ chức hoạt
động sản xuất kinh doanh của DN, có khả năng
sáng tạo, linh hoạt, có khả năng làm việc nhóm và
phối hợp với các nhân viên ở các bộ phận chức năng
khác trong DN.
Thực tế cho thấy, để có một phần mềm quản
trị, các DN phải bỏ một số tiền đầu tư lớn và cần
một lực lượng nhân sự có kiến thức và trình độ để
vận hành. Tuy nhiên, hầu hết các DN sản xuất Việt
Nam là các DN vừa và nhỏ, các nguồn lực về cơ sở
vật chất, nhân sự cũng còn rất hạn chế. Đây cũng
chính là nguyên nhân dẫn đến việc hệ thống thông
tin KTQT chi phí trong các DN khó có điều kiện tổ
chức và phát triển.
Tài liệu tham khảo:
1. Bộ Tài chính, Thông tư số 53/2006/TT - BTC ngày 12/06/2006;
2. Bộ Tài chính, Thông tư số 200/2014/TT - BTC ngày 22/12/2014;
3. Hồ Tiến Dũng (2009), Tổ chức hệ thống thông tin quản trị DN, NXB Văn hóa
Sài Gòn, TP. Hồ Chí Minh;
4. Nguyễn Ngọc Quang (2010), Kế toán quản trị doanh nghiệp, NXB Đại học
Kinh tế Quốc dân.
1...,67,68,69,70,71,72,73,74,75,76 78,79,80,81,82
Powered by FlippingBook