5.1. So ky 1 thang 12 - page 57

TÀI CHÍNH -
Tháng 12/2016
59
T
ập đoàn kinh tế nhà nước ở Việt Nam được
hình thành trên cơ sở các tổng công ty nhà
nước, có sự tham gia của các thành phần kinh
tế. Việc chuyển sang mô hình tập đoàn kinh tế chính
là phát triển một phương thức kinh doanh mới tận
dụng những cải thiện về môi trường kinh doanh
cho các doanh nghiệp nhà nước (DNNN). Sau hơn
20 năm thí điểm thành lập, Việt Nam đã thành lập
12 tập đoàn, tuy nhiên sau khi thực hiện, tái cơ cấu,
đến nay còn lại 7 tập đoàn kinh tế nhà nước: Dầu
khí Quốc gia Việt Nam, Bưu chính Viễn thông, Công
nghiệp Cao su Việt Nam, Than Khoáng sản Việt
Nam; Điện lực Việt Nam; Hoá chất Việt Nam; Viễn
thông Quân đội.
Để nâng cao hiệu quả nguồn vốn nhà nước tại
các tập đoàn kinh tế, thời gian qua, Chính phủ
cũng như các bộ, ngành đã ban hành, triển khai
thực hiện nhiều cơ chế, chính sách giám sát tài
chính nhằm bảo toàn, phát triển vốn tại các đơn
vị này. Điển hình như, Nghị định 61/2013/NĐ-CP
ngày 25/06/2013 của Chính phủ, về việc ban hành
Quy chế giám sát tài chính và đánh giá hiệu quả
hoạt động, công khai thông tin tài chính đối với
DN do Nhà nước làm chủ sở hữu và DN có vốn nhà
nước; Thông tư 158/2013/TT- BTC ngày 13/11/2013
của Bộ Tài chính, hướng dẫn một số nội dung về
giám sát tài chính và đánh giá hiệu quả hoạt động
đối với DN do Nhà nước làm chủ sở hữu và DN
có vốn nhà nước; Nghị định 87/2015/NĐ-CP ngày
06/10/2015 của Chính phủ, về giám sát đầu tư vốn
nhà nước vào DN, giám sát tài chính, đánh giá hiệu
quả hoạt động và công khai thông tin tài chính của
DNNN và DN có vốn nhà nước.
Có thể khẳng định, các chính sách trên đã bước
đầu tạo hành lang pháp lý cho việc giám sát tài
chính tại các DN có vốn nhà nước nói chung và các
tập đoàn kinh tế nhà nước nói riêng. Tuy nhiên, việc
bảo toàn và phát triển vốn tại các DNNN và DN có
vốn nhà nước cần phải có chỉ tiêu cụ thể về vốn chủ
sở hữu và hệ số bảo toàn vốn. Trước yêu cầu này,
ngày 15/12/2015 Bộ Tài chính đã ban hành Thông
tư 200/2015/TT - BTC hướng dẫn một số nội dung
về giám sát đầu tư vốn nhà nước vào DN, giám sát
tài chính, đánh giá hiệu quả hoạt động và công khai
thông tin tài chính của DNNN và DN có vốn nhà
nước. Theo đó, để đánh giá mức độ bảo toàn và phát
triển vốn của DN cần sử dụng các chỉ tiêu về: Tổng
tài sản; lợi nhuận sau thuế và các chỉ tiêu phản ánh
hiệu quả sử dụng vốn như: Tỷ suất lợi nhuận sau
thuế/vốn chủ sở hữu (ROE), tỷ suất lợi nhuận sau
thuế/tổng tài sản (ROA).
Theo kết quả khảo sát tại 7 tập đoàn kinh tế nhà
nước cho thấy, 100% tập đoàn kinh tế nhà nước ở
Việt Nam đã tiến hành lập Báo cáo giám sát cho chủ
sở hữu nhà nước. Đối với từng nội dung giám sát tài
chính, các tập đoàn kinh tế nhà nước đều có những
tiêu chí để đánh giá, xem xét; 100% các tập đoàn
kinh tế được khảo sát đã tiến hành giám sát việc
bảo toàn và phát triển vốn tại tập đoàn, nội dung
phân tích tài chính trong giám sát việc bảo toàn và
phát triển vốn được thể hiện thông qua các tiêu chí
nhưng phần lớn các tập đoàn kinh tế đều sử dụng
chỉ tiêu như: Hệ số bảo toàn vốn; Vốn đầu tư của
chủ sở hữu.
Trong đó, hệ số bảo toàn vốn = vốn chủ sở hữu
cuối kỳ/vốn chủ sở hữu đầu kỳ. Bên cạnh đó, để
phản ánh việc bảo toàn và phát triển vốn, một số tập
BÀNVỀ TIÊU CHÍ GIÁMSÁT, BẢOTOÀN
VỐNNHÀNƯỚC TẠI CÁC TẬP ĐOÀNKINHTẾ HIỆNNAY
ThS. NGUYỄN LÊ HOA
– Bộ Tài chính
Giám sát tài chính là nhiệm vụ quan trọng của quá trình đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động
của các tập đoàn kinh tế nhà nước, đặc biệt trong bối cảnh Chính phủ đang đẩy mạnh tái cơ cấu
doanh nghiệp nhà nước thì đây là nhiệm vụ hết sức cần thiết. Bài viết đánh giá thực trạng giám
sát tài chính, bảo toàn vốn nhà nước tại các tập đoàn kinh tế và đưa ra những giải pháp nhằm hạn
chế rủi ro, nâng cao hiệu quả nguồn vốn nhà nước tại doanh nghiệp…
Từ khóa: Tập đoàn kinh tế, giám sát tài chính, bảo toàn vốn, hiệu quả hoạt động
Ngày nhận bài: 3/11/2016
Ngày chuyển phản biện: 5/11/2016
Ngày nhận phản biện: 24/11/2016
Ngày chấp nhận đăng: 25/11/2016
1...,47,48,49,50,51,52,53,54,55,56 58,59,60,61,62,63,64,65,66,67,...86
Powered by FlippingBook