TCTC ky 1 thang 12 - page 79

TÀI CHÍNH -
Tháng 12/2017
81
thực hiện bao gồm:
Thứ nhất,
biện pháp khai thác: Khi người vay
gặp khó khăn về tài chính do tình hình kinh doanh
không thuận lợi, ngân hàng có thể sử dụng các biện
pháp như: Đưa ra lời khuyên giúp người vay khôi
phục tình hình kinh doanh dựa trên sự am hiểu về
khách hàng và thị trường; Gia hạn nợ cho khách
hàng: Gia hạn nợ vay là việc kéo dài thêm một
khoảng thời gian trả nợ gốc (gốc, lãi) vượt quá thời
hạn cho vay đã thỏa thuận trước đó trong hợp đồng
tín dụng đã ký. Trong những trường hợp khách
hàng có khả năng khôi phục tình hình kinh doanh,
các ngân hàng có thể xem xét áp dụng biện pháp cấp
phát thêm vốn để “nuôi nợ”. Bên cạnh đó, chuyển
tín dụng ngân hàng thành vốn cổ phần của doanh
nghiệp cũng là một trong những biện pháp khai
thác được áp dụng.
Thứ hai,
biện pháp thanh lý: Các biện pháp thanh
lý thường được áp dụng gồm: Ngân hàng thuyết phục
khách hàng tự bán tài sản thế chấp; Ngân hàng bán
tài sản tài chính để thu nợ theo thỏa thuận trong hợp
đồng; Sử dụng biện pháp pháp lý để thu hồi nợ vay...
Thứ ba,
bán nợ: Bán nợ là việc chuyển nhượng
khoản nợ, theo đó bên bán nợ chuyển giao quyền
chủ nợ của khoản nợ cho bên mua nợ và nhận thanh
toán từ bên mua nợ.
Thứ tư,
xóa nợ: Xóa nợ (gốc, lãi) là biện pháp
không thu hồi nợ gốc, nợ lãi đối với khách hàng gặp
rủi ro không còn khả năng trả nợ sau khi đã áp dụng
mọi biện pháp thu hồi và xử lý nợ theo quy định.
Các quy định liên quan
đến phòng, ngừa rủi ro tín dụng tại Việt Nam
Để phòng ngừa RRTD, hạn chế các tác động của
nó, theo quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt
Nam (NHNN), tất cả các khoản nợ xấu ngân hàng
đều phải trích lập dự phòng RRTD, tỷ lệ trích lập
dự phòng tùy thuộc theo mức độ nợ xấu và tài sản
bảo đảm. Số tiền trích lập dự phòng được tính vào
chi phí vốn của ngân hàng. Cụ thể, theo Thông tư
09/2014/TT – NHNN ngày 18/03/2014, Thông tư
sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư 02/2013/
TT-NHNN, tỷ lệ trích lập dự phòng RRTD cụ thể đối
với từng nhóm nợ: Nhóm 1: 0%; Nhóm 2: 5%; Nhóm
3: 20%; Nhóm 4: 50%; Nhóm 5: 100%. Mức trích lập
dự phòng chung: Số tiền dự phòng chung phải trích
được xác định bằng 0,75% tổng số dư các khoản nợ
từ nhóm 1 đến nhóm 4.
Theo quy định tại Thông tư 09/2014/TT-NHNN về
phân loại tài sản có, mức trích, phương pháp trích lập
dự phòng rủi ro và việc sử dụng dự phòng để xử lý
rủi ro trong hoạt động của tổ chức tín dụng, chi nhánh
ngân hàng nước ngoài thì tổ chức tín dụng, chi nhánh
ngân hàng nước ngoài phải xây dựng hệ thống xếp
hạng tín dụng nội bộ để xếp hạng khách hàng theo định
kỳ hoặc khi cần thiết, làm cơ sở cho việc xét duyệt cấp
tín dụng; Quản lý chất lượng tín dụng, xây dựng chính
sách dự phòng rủi ro phù hợp với phạm vi hoạt động
và tình hình thực tế của tổ chức tín dụng, chi nhánh
ngân hàng nước ngoài.
Như vậy, tất cả các NHTM đều phải lập quỹ dự
phòng RRTD định kỳ từ lợi nhuận của ngân hàng
trước khi nộp thuế thu nhập, nhằm khắc phục rủi ro
nếu những tình huống này xảy ra.
Để xử lý nợ xấu, lành mạnh hóa tài chính, giảm
thiểu rủi ro cho các tổ chức tín dụng, doanh nghiệp,
Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng
(VAMC) được thành lập và hoạt động theo Nghị
định 53/2013/NĐ-CP của Chính phủ, Quyết định 843/
QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ và Quyết định
1459/QĐ-NHNN của NHNN. NHNN cũng đã ban
hành nhiều văn bản, quyết định, thông tư liên quan
đến việc hình thành thị trường mua bán nợ xấu. Tiêu
biểu như: Thông tư 08/2016/TT-NHNN sửa đổi, bổ
sung một số điều của Thông tư 19/2013/TT-NHNN
quy định về việc mua, bán và xử lý nợ xấu của VAMC
theo cơ chế thị trường giúp tăng tính chủ động và
quyền hạn cho VAMC; Quyết định 618/QĐ-NHNN
cho phép VAMC chính thức được triển khai phương
án mua bán nợ xấu theo cơ chế thị trường.
Theo thống kê của NHNN, đến 30/11/2016, tỷ lệ nợ
xấu toàn hệ thống ước tính còn khoảng 2,46%. Còn theo
tính toán của Ủy ban Giám sát tài chính Quốc gia, tính
đến thời điểm 31/12/2016, chưa có một ngân hàng nào
công bố tỷ lệ nợ xấu của mình vượt quá ngưỡng 3%.
Để giải quyết nợ xấu, các tổ chức tín dụng được
sử dụng bằng tổng hợp các giải pháp: phát mại tài
sản, cùng khách hàng xử lý tài sản, xiết nợ... trong đó,
nhiều khoản nợ xấu được các tổ chức tín dụng bán
cho VAMC. Trong năm 2016, theo số liệu của Ủy ban
Giám sát Tài chính quốc gia, hệ thống các tổ chức tín
dụng đã xử lý khoảng 95.000 tỷ đồng nợ xấu. Trong
đó, xử lý qua thu hồi nợ, bán tài sản bảo đảm chiếm
khoảng 52,6% tổng giá trị nợ xấu được xử lý, bằng
nguồn dự phòng rủi ro chiếm 26,6%, bán cho VAMC
chiếm 21%. Chất lượng tín dụng theo báo cáo cũng
cho thấy đã có những cải thiện nhất định...
Tài liệu tham khảo:
1. Nguyễn Minh Kiều (2012), Quản trị rủi ro tài chính. Đại học mở TP. Hồ Chí
Minh và chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright, NXB Tài chính;
2. Peter S. Rose (2001), Quản trị ngân hàng thương mại. NXB Tài chính;
3. Thông tư 09/2014/TT-NHNN ngày 18/3/2014 của Ngân hàng Nhà nước;
4. Các Website: sbv.gov.vn, tapchitaichinh.vn, thainguyen.gov.vn...
1...,69,70,71,72,73,74,75,76,77,78 80,81,82,83,84,85,86,87,88,89,...114
Powered by FlippingBook