So ky 1 thang 2 - page 49

TÀI CHÍNH -
Tháng 2/2017
51
chủ yếu được hình thành từ sáng kiến riêng của các
địa phương và các mô hình này mới chỉ phát huy lợi
thế quy mô tập trung về mặt địa lý, còn các liên kết
kinh tế rất lỏng lẻo, nhưng chúng cũng đã có “dáng
dấp” của CLKN.
Hầu hết các KCN và CCN kể trên đều thuộc loại
CCN thông thường với mô hình tổ chức kiểu cụm
liên kết mạng. Các CLKN này hình thành tự phát,
phát triển không bền vững, kém năng động, liên hệ
lỏng lẻo, đặc biệt có rất ít liên kết giữa các DN trong
cụm với các doanh nghiệp và chủ thể kinh tế khác
bên ngoài cụm.
Tuy thế, trong số các CLKN loại CCN thông
thường ở Việt Nam, cũng đã xuất hiện một số cụm
vệ tinh. Đó là những ngành, lĩnh vực thực hiện liên
kết ngành và tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu
nhưng chủ yếu do nhu cầu bắt buộc của thị trường.
Chẳng hạn, ngành dệt may, da giày tham gia phần
gia công, chế biến nguyên vật liệu được thực hiện
trong nước đạt được 20-30%, phần thực hiện ở nước
ngoài tới 70 - 80% do nhập khẩu nguyên vật liệu.
Cụm dệt may ở khu vực TP. Hồ Chí Minh là một ví
dụ cho trường hợp này. Tương tự, ngành ôtô, lắp
ráp trong nước đạt khoảng 5 – 10%, trong khi phần
thực hiện nước ngoài tới 90 – 95% do phải nhập linh
kiện, máy móc…
Bên cạnh các CLKN theo mô hình vệ tinh, đã hình
thành các CCN thông thường tổ chức theo mô hình
trục bánh xe và nan hoa. Điển hình cho trường hợp
này là Công ty Cổ phần Ô tô Trường Hải (Thaco).
Công ty này đã đầu tư thành lập Khu phức hợp cơ
khí ô tô Chu Lai – Trường Hải tại Khu kinh tế mở
Chu Lai. Hiện nay, Khu phức hợp này đã có 23 công
ty, nhà máy (4 nhà máy sản xuất, lắp ráp, 8 nhà máy
sản xuất linh kiện, phụ tùng) và các đơn vị hỗ trợ.
Ở đây, “trục bánh xe” là Thaco và “nan hoa” là 23
đơn vị hỗ trợ.
Thuộc loại CCN truyền thống là các cụm công
nghiệp làng nghề. Theo số liệu thống kê, hiện nay, ở
Việt Nam có từ 2000 đến 3000 cụm công nghiệp làng
nghề, trong đó Miền Bắc chiếm khoảng 70% số cụm
công nghiệp làng nghề; tổng số cơ sở sản xuất trong
các cụm công nghiệp làng nghề là khoảng 40.000,
trong đó hơn 80% là các hộ kinh doanh cá thể. Nhiều
cụm công nghiệp làng nghề không những chỉ sản
xuất những sản phẩm truyền thống, sản phẩm mới
mà còn áp dụng các công nghệ sản xuất mới để sản
xuất ra các sản phẩm có chất lượng cao xuất khẩu
ra nước ngoài.
Những năm trở lại đây đang chứng kiến làn sóng
các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) Nhật Bản
đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ tại Việt Nam.
Tại KCN Bắc Thăng Long Hà Nội, tập trung nhiều
DN 100% vốn FDI đến từ Nhật Bản. KCN này liên kết
các DN lắp ráp cơ điện tử lớn đến từ Nhật Bản như
Canon, Panasonic với các DN cung cấp phụ tùng linh
kiện cũng đến từ Nhật Bản như Nissei, Santomas,
Yasufuku… Doanh thu một năm tại KCN này đạt
trên 30 nghìn tỷ đồng và xuất khẩu trên 1 tỷ USD.
Đây là ví dụ về cụm ngành công nghiệp khoa học kỹ
thuật cao tổ chức theo mô hình trục bánh xe và nan
hoa. Từ hiệu quả của KCN này, Hà Nội đang định
hướng phát triển mạnh các CLKN loại này.
Bên cạnh đó, việc hình thành và phát triển các
khu công nghệ cao (KCNC) ở các thành phố lớn, TP.
Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đà Nẵng thể hiện sự nỗ lực
lớn của Nhà nước. Một trong các đích hướng tới của
các khu công nghệ cao là tạo môi trường thuận lợi
thu hút FDI trong lĩnh vực công nghệ cao, đặc biệt
là thu hút các tập đoàn đa quốc gia. Khu công nghệ
cao còn là nơi thu hút, tập hợp lực lượng trí thức
khoa học công nghệ trong cả nước, trí thức Việt kiều
và các nhà khoa học công nghệ nước ngoài trong
nghiên cứu, sáng tạo và chuyển giao công nghệ trực
tiếp cho sản xuất và ươm tạo DN công nghệ cao.
Khu Công nghệ cao khuyến khích đầu tư vào các
lĩnh vực công nghệ thông tin, truyền thông, công
nghệ phần mềm tin học, công nghệ sinh học, công
nghệ vi điện tử, cơ khí chính xác, cơ-điện tử, công
nghệ vật liệu mới… Có thể thấy, các khu công nghệ
cao mang “dáng dấp” của cụm ngành công nghiệp
khoa học kỹ thuật cao được tổ chức theo mô hình
cụm chính phủ chủ đạo.
Phát triển loại cụm
liên kết ngành nào cho Việt Nam?
Phát triển CLKN nhằm nâng cao năng lực cạnh
tranh cho các DN là lựa chọn chính sách của nhiều
quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên, mục tiêu trực tiếp
của KCN, CCN ở Việt Nam hiện nay mới chỉ là thu
hút, tập trung các DNNVV, hợp tác xã, hộ kinh doanh
cá thể ở địa phương, ổn định cơ sở hạ tầng, thúc
đẩy sản xuất kinh doanh và khắc phục ô nhiễm môi
trường, ít có sự liên hệ hỗ trợ cho nhau trong chuỗi
giá trị. Do vậy, các KCN, CCN ở Việt Nam, mà thực
chất là các cụm ngành công nghiệp thông thường và
các cụm ngành công nghiệp truyền thống tổ chức
theo mô hình kết nối mạng hoặc mô hình vệ tinh cần
được củng cố, phát triển theo hướng củng cố hạ tầng
kỹ thuật và môi trường, tăng cường các mối liên kết
giữa các DN để tạo dựng và phát triển chuỗi giá trị.
Những ngành “thông thường” như dệt may, da
giày có định hướng xuất khẩu rất cao, thì liên kết
quốc tế, hay nói cách khác, tham gia vào chuỗi giá trị
1...,39,40,41,42,43,44,45,46,47,48 50,51,52,53,54,55,56,57,58,59,...66
Powered by FlippingBook