42
Hai là,
khắc phục tình trạng chuẩn bị đầu tư kém
chất lượng bằng quy định pháp lý như: yêu cầu các
dự án phải được thẩm định, phê duyệt chủ trương
và hiện đại hóa công tác thẩm định, lựa chọn các dự
án. Luật Đầu tư công đã quy định toàn bộ các dự án
đầu tư công phải được sắp x p theo thứ tự ưu tiên
(Điều 52) và được phê duyệt chủ trương (Điều 55).
Điều này làm thay đổi đáng kể nhận thức của các
cấp, các ngành về tầm quan trọng của khâu chuẩn bị
đầu tư, nhất là đề cao vai tr của khâu xác định chủ
trương đầu tư. Đây là điều kiện rất cần thi t đảm
bảo các dự án có chất lượng, hiệu quả, đúng định
hướng phát triển.
Ba là,
công tác thẩm định k hoạch đầu tư công
được quy định khá chặt ch tại Luật Đầu tư công và
Nghị định 77/2015/NĐ-CP. Theo đó, k hoạch đầu tư
công được thẩm định nội bộ tại cơ quan, đơn vị sử
dụng vốn và được thẩm định chính thức b i cơ quan
quản lý nhà nước về đầu tư các cấp. Việc thẩm định
kỹ lưỡng đã giúp các dự án được đảm bảo về nguồn
vốn và bố trí theo đúng các nguyên tắc, tiêu chí, định
mức và thứ tự ưu tiên đã đề ra.
Bốn là,
việc thực hiện k hoạch đầu tư công trung
hạn bước đầu góp phần nâng cao hiệu quả đầu tư,
được thể hiện quả chỉ số Đầu tư tăng trư ng ICOR.
Theo đó, chỉ số ICOR của Việt Nam có xu hướng
giảm dần qua các năm. Cụ thể, n u ICOR của Việt
Nam giai đoạn 2006-2010 là 6,96, thì giai đoạn 2011–
2015 giảm xuống c n 6,91 và ti p tục xu hướng giảm
trong năm 2016 c n 6,41 và 6,27 năm 2017.
Nhìn chung, việc thực hiện k hoạch đầu tư công
trung hạn đã tăng cường sự công khai, minh bạch
trong phân bổ nguồn lực, thúc đẩy cơ cấu lại đầu tư
công. N u so sánh với khung phân tích đánh giá PIMA
về Quản lý đầu tư công của Quỹ Tiền tệ Quốc t , việc
ban hành và thực hiện k hoạch đầu tư công trung
hạn có tiềm năng góp phần cải thiện 6 trong số 15 chỉ
tiêu của PIMA, bao gồm: (1) Tăng cường kỷ luật ngân
sách; (2) Thi t lập k hoạch đầu tư công quốc gia và
đầu tư công từng ngành; (3) Tăng cường sự phối hợp
giữa trung ương và địa phương trong quản lý đầu tư
công; (4) Góp phần xây dựng khuôn khổminh bạch để
lựa chọn, giám sát và quản lý Hợp tác công tư (PPP);
(5) Lập k hoạch ngân sách trung hạn; (6) Tăng cường
sự toàn diện và thống nhất của ngân sách, tránh tính
trạng ngân sách song trùng, phân tách giữa lập ngân
sách chi thường xuyên và chi đầu tư.
Hạn chế, vướng mắc trong quá trình thực hiện
Kế hoạch đầu tư công giai đoạn 2016 - 2020
Luật Đầu tư công và các văn bản hướng d n đã tạo
nền tảng cho việc lập k hoạch đầu tư công trung hạn,
tuy nhiên thực t cho thấy một số văn bản ban hành
khá muộn, nhiều văn bản chỉ mang tính chất điều
hành, xử lý tình huống thực ti n phát sinh, khi n cho
một số quy định về lập k hoạch đầu tư công trung
hạn bị hạn ch , chủ thể xây dựng k hoạch đầu tư
công trung hạn gặp nhiều lúng túng. Phải khẳng định
là c n quá sớm để đánh giá tác động của việc lập và
thực thi k hoạch đầu tư công trung hạn. Tuy nhiên,
thực ti n triển khai thời gian qua đã bộc lộ không ít
vướng mắc, khi n cho k hoạch đầu tư công trung hạn
giai đoạn 2016-2020 khó đạt mục tiêu và hiệu quả đề
ra. Một số hạn ch có thể được nhắc tới như sau:
Một là,
khó khăn trong ước lượng các nguồn vốn
đầu tư công trung hạn và vốn hàng năm. Việc đảm
bảo nguồn vốn để triển khai k hoạch đầu tư công
trung hạn thực t mới chỉ “dừng lại trên giấy”, đặc
biệt là trong điều kiện khó khăn hiện nay. Khả năng
dự báo về tăng trư ng kinh t trong trung hạn c n
hạn ch , trong khi, nguồn thu chịu ảnh hư ng từ
nhiều lý do khách quan, d n đ n khó chủ động được
nguồn lực. Mặc dù đã có hướng d n, tuy nhiên việc
ước lượng nguồn vốn rất khó khăn. Ví dụ: Nguồn
thu từ cấp quyền sử dụng đất không ổn định, phụ
thuộc thị trường; Nguồn trái phi u chính phủ (TPCP)
chưa rõ ràng, chưa có chủ trương phát hành TPCP
giai đoạn 2016-2020; Nguồn TDĐTPT phụ thuộc khả
năng ti p cận của từng địa phương; Nguồn ODA
phụ thuộc vào cam k t và hiệp định với nhà tài trợ…
Hai là,
khó khăn trong việc thẩmđịnh và phê duyệt
nguồn vốn đầu tư dự án. Khâu thẩm định nguồn vốn
và khả năng cân đối vốn chưa được quy định rõ ràng,
trong một số trường hợp đã tạo ra “v ng luẩn quẩn”
trong lập k hoạch đầu tư công trung hạn. Theo quy
định của pháp luật, dự án phải có quy t định chủ
trương đầu tư mới được bố trí vốn, trong khi việc
thẩm định nguồn vốn và khả năng cân đối vốn lại là
điều kiện bắt buộc để ra quy t định chủ trương đầu
tư. Vốn có trước hay dự án có trước là một vấn đề c n
đang vướng mắc và chưa rõ ràng. Hệ quả của vấn đề
Hình 1: Chỉ số ICOR của Việt Nam qua các năm
Nguồn: Tổng hợp từ các Báo cáo của Bộ Kế hoạch và Đầu tư