K1 T3 - page 5

TÀI CHÍNH -
Tháng 3/2017
7
hiện các năm 2011 – 2016 so với dự kiến thì chênh
lệch giữa số thực hiện và số dự kiến còn khá lớn.
Trong khoảng thời gian, chỉ có 2 năm CPI thực hiện
và CPI dự kiến là gần sát với nhau (năm 2013, chỉ
tiêu dự kiến là 6,5% và thực hiện là 6,04%; năm
2016, dự kiến là dưới 5% và thực hiện là 4,74%),
còn lại là có chênh lệch với khoảng cách lớn giữa
số thực hiện và số dự kiến.
Nếu xem xét trong cả một giai đoạn, công tác
quản lý, điều hành giá cả tiêu dùng của Chính
phủ đã có nhiều chuyển biến tích cực. Theo số liệu
thống kê về diễn biến CPI các năm và chỉ tiêu dự
kiến từ đầu năm trong giai đoạn 2011- 2016 cho
thấy, trong suốt cả giai đoạn, duy nhất năm 2011
là năm CPI thực hiện (18,13%) cao hơn nhiều so với
chỉ tiêu dự kiến đầu năm (7%), còn lại các năm từ
2012 – 2016, chỉ tiêu CPI thực hiện đều thấp hơn
chỉ tiêu dự kiến. Nếu tính chung cả giai đoạn 2011
– 2016, CPI bình quân dự kiến từ đầu năm tăng là
6,75%/năm, còn số liệu về tình hình thực hiện CPI
bình quân năm tăng là 6,36%. Như vậy, khoảng
cách sai lệch giữa chỉ tiêu thực hiện so với kế hoạch
là không lớn, số thực hiện chủ yếu thấp hơn số dự
kiến. Điều đó có nghĩa là Chính phủ đã khá chủ
động trong công tác quản lý, điều hành giá, đảm
bảo đạt được mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô đã
đặt ra trong giai đoạn phát triển kinh tế hiện nay.
Điểm khác biệt lớn dễ nhận thấy của năm 2016
so với các năm trước đó là: Những năm trước, CPI
tăng và chênh lệch lớn so với dự kiến đều xuất phát
từ nhiều yếu tố tác động mà Nhà nước không nhận
biết hoặc không đánh giá được; Còn năm 2016, yếu
tố chủ yếu làm CPI tăng lại chính là xuất phát từ
các chính sách phát triển kinh tế - xã hội do Chính
phủ ban hành và điều này cho thấy tính chủ động
trong quản lý điều hành giá của Nhà nước.
Thứ tư
, năm 2016, CPI của nhóm dịch vụ y tế có
mức tăng lớn nhất, tiếp đến là nhóm giáo dục. Cả
hai nhóm trên là yếu tố chủ yếu tác động tới mức
tăng CPI cả năm 2016. Số liệu thống kê CPI theo
11 nhóm hàng hoá và dịch vụ quan trọng các năm
2013 –2016 cho thấy, trong số 11 nhóm hàng hoá,
dịch vụ thì 9 nhóm là có mức độ tăng ở các năm
với mức tương đương nhau và ít có biến động lớn
(lương thực, thực phẩm; đồ uống, thuốc lá; may
mặc, dày dép; vật liệu xây dựng; đồ dùng gia đình;
giao thông; bưu chính viễn thông; văn hoá, thể thao
và khác). Riêng nhóm dịch vụ y tế và giáo dục có
mức độ biến động giữa các năm là tương đối lớn.
Điển hình như: CPI của nhóm dịch vụ y tế, năm
2013 tăng 18,97%; năm 2014 tăng 2,25%; năm 2015
tăng 1,79% và năm 2016 tăng cao nhất là 55,72%.
Tương tự, nhóm giáo dục năm 2016 cũng có mức
tăng là 10,81%. Như vậy, trong khi phần lớn CPI
của các nhóm sản phẩm hàng hoá, dịch vụ đều
tăng với mức độ tương đối đồng đều nhau giữa
các năm, thì việc tăng giá dịch vụ y tế và giáo dục
mạnh trong năm 2016 đã trở thành nguyên nhân
chính đẩy CPI cả năm tăng mạnh.
Thứ năm,
CPI các tháng trong năm đều là số
dương (nghĩa là đều tăng so với tháng trước),
tháng sau tăng hơn tháng trước. Đây cũng là
điểm khác biệt của CPI năm 2016 với một số năm
trước đây.
Số liệu CPI theo tháng các năm 2014 – 2016 cho
thấy, năm 2014 có 3 tháng CPI giảm (chỉ số là số
âm) và năm 2015 có 4 tháng giảm so tháng trước,
riêng năm 2016 thì chỉ số CPI các tháng đều là số
dương (đều tăng hơn so với tháng trước). Thực
tế này chứng tỏ Chính phủ đã dự báo khá chính
xác về biến động của CPI các tháng và có những
điều chỉnh kịp thời để ổn định thị trường và giá
cả trong nước.
Thứ sáu,
CPI theo tháng năm 2016 phụ thuộc
nhiều vào việc điều chỉnh giá một số nhóm sản
phẩm, dịch vụ do Nhà nước quản lý giá như: dịch
Hình 2: CPI dự kiến và thực hiện
trong các năm 2011 - 2016
Nguồn: Tổng cục Thống kê
Hình 3: CPI các nhóm sản phẩm, dịch vụ
quan trọng năm 2013 –2016
Nguồn: Tổng cục Thống kê
1,2,3,4 6,7,8,9,10,11,12,13,14,15,...94
Powered by FlippingBook