TCTC (2018) so 6 ky 1 (IN)-full - page 79

78
TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP
thay đổi các chính sách kế toán. Bên cạnh đó, do yêu
cầu về tính nhất quán, nên việc thay đổi các chính
sách kế toán để điều chỉnh lợi nhuận thường đòi
hỏi nhiều công sức, nỗ lực hơn là việc sử dụng các
phương thức khác.
Thông qua các hoạt động, giao dịch thực tế
Cách thức thường được sử dụng thông qua các
chính sách kinh doanh cụ thể, ví dụ thông qua các
chính sách bán hàng để làm tăng doanh thu trong
kỳ hiện tại. Cụ thể, các khoản chiết khấu, giảm giá,
chương trình khuyến mại, ưu đãi… có thể làm gia
tăng số lượng hàng hóa và dịch vụ cung cấp trong
kỳ, do đó làm gia tăng doanh thu trong kỳ mặc dù
giá bán bị giảm. Tuy nhiên, doanh thu trong kỳ tiếp
theo có thể giảm so với kỳ hiện tại vì sang kỳ tiếp
theo các chương trình này có thể không còn tiếp tục.
Một ví dụ khác về gia tăng các khoản thu nhập không
thường xuyên trong kỳ là quyết định thanh lý tài sản
cố định có thể làm thu nhập kỳ hiện tại cao hơn so với
các kỳ khác. Bartov (1993) cho rằng, quyết định thanh
lý tài sản cố định có thể nhằm mục tiêu quản lý thu
nhập và qua đó cải thiện chỉ số Nợ/Vốn chủ sở hữu.
Thêm vào đó, các công ty có thể tác động đến chi
phí giá vốn hàng bán bằng cách thay đổi sản lượng
sản xuất mỗi kỳ. Khi đó, họ có thể làm tăng hoặc giảm
chi phí sản xuất chung trên mỗi đơn vị sản phẩm, làm
ảnh hưởng đến chi phí sản xuất đơn vị của sản phẩm.
Điều này sẽ tác động đến chi phí giá vốn hàng bán
của của kỳ hiện tại hoặc kỳ tiếp theo. Mức độ dự trữ
hàng tồn kho cũng có mối liên hệ mật thiết với quản
lý thu nhập, theo Roychowdhury, (2006).
Một cách khác để thao túng số liệu chi phí là cách
ghi nhận các chi phí nghiên cứu và phát triển (R&D).
Trong ngắn hạn, các chủ sở hữu có thể gây áp lực
trong việc trì hoãn ghi nhận các chi phí này nhất là ở
các công ty có số lượng cổ đông nhiều và sự thay đổi
các chủ phần hùn mang tính thường xuyên, Bushee
(1998). Hoặc các chi phí này sẽ bị ghi nhận chậm hay
trì hoãn trong kỳ cuối cùng tại nhiệm sở của các nhà
quản lý công ty Dechow & Sloan (1991). Do kết quả
lợi nhuận các kỳ này có ảnh hưởng đáng kể đến lợi
ích, thu nhập của nhà quản lý trước khi nghỉ hưu.
Giao dịch mua bán với các bên liên quan cũng
là cách thức được sử dụng trong việc điều chỉnh
doanh thu. Thậm chí, sự lộ liễu thể hiện rõ ở các
chủ sở hữu của các DN có các khoản nợ phải thu
lớn với công ty thao túng BCTC có thể người thân
với nhau hay thậm chí là các công ty này cùng
chung một chủ sở hữu.
Thông qua các khoản dồn tích
Các khoản dồn tích đặc biệt hay được sử dụng để
điều chỉnh lợi nhuận như: Thuế thu nhập hoãn lại,
các khoản dự phòng… Ví dụ, các ngân hàng thường
điều chỉnh lợi nhuân qua dự phòng lỗ từ hoạt động
cho vay (Gray, 2004). Hay các công ty bảo hiểm
quản lý lợi nhuận qua dự phòng các chi phí đền bù
cho các tổn thất của khách hàng đủ điều kiện được
hưởng bảo hiểm (Beaver, 2003). Tuy nhiên, các công
ty thường không chỉ tập trung vào một khoản dồn
tích cụ thể nào đó để điều chỉnh thu nhập mà thường
lợi dụng tất cả các khoản dồn tích của chi phí hay thu
nhập có thể sử dụng để thao túng lợi nhuận.
Như vậy, có thể thấy, có nhiều cách thức khác nhau
để thao túng số liệu trên BCTC. Mục tiêu của việc thao
túng BCTC thường để vẽ ra một bức tranh tươi sáng
hơn về vị thế tài chính cũng như kết quả kinh doanh
của DN. Động lực này xuất phát từ lợi ích của nhà
quản lý cũng như từ các cổ đông của công ty.
Hiểu rõ được động lực của thao túng BCTC, cũng
như cách thức có thể là chỉ dấu để nhà đầu tư, chủ
nợ hiểu sâu hơn bức tranh toàn cảnh được vẽ nên từ
các con số trên BCTC.
Tài liệu tham khảo:
1.Ngô Thế Chi, Vũ Công Ty, Đọc, lập, phân tích báo cáo tài chính DN, NXB Thống
kê 2001;
2. Nguyễn Văn Dược, Báo cáo và phân tích tài chính DN, NXB Giao thông vận
tải 2010;
3. Bartov, E. (1993), The timing of asset sales and earnings manipulation.
Accounting review, 840-855;
4. Beaver, W. H., McNichols, M. F., & Nelson, K. K. (2003), Management of the
loss reserve accrual and the distribution of earnings in the property-casualty
insurance industry. Journal of Accounting and Economics, 35(3), 347-376;
5. Bushee, B. J. (1998), The influence of institutional investors on myopic R&D
investment behavior. Accounting review, 305-333;
6. Cheng, C. A., Wang, J., & Wei, S. X. (2015), State ownership and earnings
management around initial public offerings: Evidence from China. Journal
of International Accounting Research, 14(2), 89-116;
7. Dechow, P. M., & Sloan, R. G. (1991), Executive incentives and the horizon
problem: An empirical investigation. Journal of Accounting and Economics,
14(1), 51-89;
8. Gray, R. P., & Clarke, F. L. (2004), A methodology for calculating the
allowance for loan losses in commercial banks. Abacus, 40(3), 321-341.
Khi các nguyên tắc, yêu cầu, hướng dẫn lập và
trình bày báo cáo tài chính không rõ ràng và
đầy đủ, thiếu tính đồng bộ, hay khó áp dụng,
sẽ không đảm bảo được các tính chất đáng tin
cậy, có thể hiểu, so sánh được… báo cáo tài
chính vì thế trở nên kém hữu ích.
1...,69,70,71,72,73,74,75,76,77,78 80,81,82,83,84,85,86,87,88,89,...125
Powered by FlippingBook