TCTC ky 1 thang 9-2016 - page 51

53
Xét theo khu vực, giai đoạn từ 1970 - 1985, đầu
tư công cho khu vực nông thôn được phân bổ nhiều
hơn so với khu vực thành thị. Theo đó, tỷ trọng đầu
tư công cho khu vực nông thôn thay đổi theo xu
hướng tăng trong giai đoạn 1975-1979 và duy trì
tương đối ổn định đến hết năm 1985. Từ năm 1986,
tỷ trọng đầu tư công vào khu vực nông thôn bắt đầu
giảm liên tục cho đến hết năm 1991. Đáng chú ý là
mức đầu tư công cho khu vực nông thôn vào năm
1991 còn thấp hơn so với nửa đầu thập niên 1980.
Giai đoạn sau, tỷ trọng đầu tư công vào khu vực
nông thôn đã tăng dần trở lại và duy trì ổn định dao
động quanh mức 35% kể từ năm 1999.
Những diễn biến trên của đầu tư công ở Nhật
Bản xuất phát từ bối cảnh kinh tế nói chung và
những điều chỉnh khuôn khổ pháp lý đối với hoạt
động đầu tư công nói riêng. Trước năm 1973, Luật
Tài chính công của Nhật Bản quy định chi ngân sách
phải được bù đắp bởi thu ngân sách và Chính phủ
Nhật Bản không cho phép đi vay để bù đắp vào chi
ngân sách. Tuy nhiên, Luật này cho phép Chính phủ
Nhật Bản phát hành trái phiếu chính phủ hoặc đi
vay để thực hiện các hoạt động đầu tư công. Như
vậy, hoạt động đầu tư công được phân biệt rõ ràng
với hoạt động chi tiêu của Chính phủ Nhật Bản.
Trong những năm 1973-1975, do ảnh hưởng của
cuộc khủng hoảng dầu mỏ thế giới, Nhật Bản buộc
phải phát hành trái phiếu chính phủ để bù đắp thâm
hụt ngân sách nhà nước. Tuy nhiên, đến năm 1990,
Chính phủ Nhật Bản đặt mục tiêu xóa bỏ sự phụ
thuộc của ngân sách vào trái phiếu. Mục tiêu này
được thực hiện một phần do thu ngân sách tăng cao
vào năm 1984.
KINH TẾ - TÀI CHÍNH QUỐC TẾ
KINHNGHIỆMQUẢN LÝ ĐẦUTƯ CÔNG
TẠI NHẬT BẢNVÀVƯƠNGQUỐC ANH
ThS. HÀ THỊ TUYẾT MINH
- Đại học Kinh doanh và Công nghệ Hà Nội
Đầu tư công là yếu tố quan trọng và là động lực chủ chốt cho sự tăng trưởng, phát triển của mỗi
quốc gia. Với mục tiêu tạo ra lợi ích cho tương lai, đầu tư công thường chiếm tỷ trọng lớn nhất trong
tổng đầu tư, chi tiêu của xã hội. Tuy nhiên, hiệu quả đầu tư công ở Việt Namhiện nay chưa tương
xứng với nguồn vốn bỏ ra. Vì vậy, việc nghiên cứu hiệu quả đầu tư công của một số quốc gia phát
triển sẽ gợi mở cho Việt Namnhiều bài học hữu ích nhằm cải thiện vấn đề này trong thời gian tới.
Từ khóa: Đầu tư công, tăng trưởng, kinh tế, thương mại.
Kinh nghiệm một số nước
Nhật Bản:
Trước năm 1970, hoạt đồng đầu tư công của Nhật
Bản ở trong tình trạng “ảm đạm”. Tuy nhiên, kể từ
sau năm 1970, tình hình đầu tư công ở Nhật Bản đã
được cải thiện đáng kể. Tổng mức đầu tư công đã
tăng từ 5,9 nghìn tỷ Yên (chiếm 7,9% GDP) vào năm
1970 lên 27,9 nghìn tỷ Yên (chiếm 11,3% GDP) vào
năm 1980. Đây là minh chứng sinh động cho chính
sách tài khóa mở rộng của Chính phủ Nhật Bản áp
dụng trong giai đoạn này.
Tuy nhiên, đến năm 1982, tăng trưởng đầu tư
công của nước này lại chậm lại, thậm chí còn ở mức
âm. Đến năm 1993, đầu tư công mới tăng trở lại đạt
mức 51,1 nghìn tỷ Yên (chiếm 10,6% GDP). Kết quả
này có được là do Nhật Bản: (i) Cam kết tăng nhu
cầu trong nước nhằm hạn chế thặng dư thương mại
với Mỹ; (ii) Chủ động triển khai thực hiện kế hoạch
về đầu tư công. Năm 1995, lượng vốn đầu tư có xu
hướng giảm dần do áp lực thâm hụt ngân sách. Trên
thực tế, đến năm 2003, mức đầu tư công đã lùi về
mức tuyệt đối của năm 2008 (31,6 nghìn tỷ Yên) và
chỉ bằng 6,3% GDP - tỷ lệ thấp nhất kể từ năm 1970.
Xét theo ngành/lĩnh vực, đầu tư công ở Nhật Bản
tập trung chủ yếu vào lĩnh vực an sinh xã hội (chiếm
từ 40 - 50% tổng mức đầu tư công), tiếp đến là ngành
công nghiệp, đầu tư công chiếm khoảng 20%. Trong
khi đó, đầu tư công trong ngành nông - lâm - ngư
nghiệp và bảo tồn đất đai có tỷ trọng tương đối
thấp, trung bình khoảng 10% lĩnh vực m i năm. Từ
thực tế này cho thấy, việc phân bổ ngân sách giữa
các bộ chưa thực sự linh hoạt.
1...,41,42,43,44,45,46,47,48,49,50 52,53,54,55,56,57,58,59,60,61,...86
Powered by FlippingBook