5.1. So ky 2 thang 11 - page 21

TÀI CHÍNH -
Tháng 11/2016
23
Đo lường tính thông tin của
giá cổ phiếu dựa trên mô hình thị trường
Dựa trên các nghiên cứu trước đây (Roll, 1988;
Morck và cộng sự, 2000; Jin & Myers, 2006), tính
thông tin của giá cổ phiếu của mỗi công ty cho
mỗi năm được đo lường bằng cách sử dụng giá trị
R
2
từ hồi quy mô hình thị trường:
r
i,t
= α + βr
M,t
+ ε
i,t
(1)
Trong đó:
r
i,t
: Tỷ suất lợi tức của cổ phiếu i tại tuần t của
mỗi năm
r
M,t
: Tỷ suất lợi tức của danh mục thị trường tại
tuần t của mỗi năm
R
2
là giá trị đo lường mức độ biến động của
tỷ suất lợi tức cổ phiếu i được gây ra bởi biến
động chung của thị trường, do đó, R
2
càng thấp
có nghĩa là sự biến động lợi tức của DN được giải
thích bởi biến động thuộc đặc tính riêng của DN
hơn là biến động của thị trường.
Nói cách khác, giá cổ phiếu của DN mang tính
thông tin cao. Bởi vì giá trị R
2
bị giới hạn giữa 0
và 1, R
2
được biến đổi logarit để sử dụng trong các
phân tích hồi quy theo cách tiếp cận của Morck và
cộng sự (2000):
φi = log((1- R
2
)/ R
2
)
Ngoài đo lường tính thông tin của giá cổ phiếu
dựa vào R
2
, một biến đo lường bổ sung là độ lệch
chuẩn của ε
i,t
từ mô hình (1) cũng được sử dụng
dựa trên cách tiếp cận của Brockman và Yan (2009).
Bên cạnh đó, tính thông tin của giá cổ phiếu
còn được đo lường thông qua sự đồng biến động
của giá cổ phiếu. Khi giá cổ phiếu ít (hoặc không)
phản ánh các thông tin liên quan đến giá trị công
ty, giá cổ phiếu sẽ có xu hướng đồng biến động
với nhau và tạo nên xu hướng đồng biến động
chung của thị trường. Trong các nghiên cứu thực
nghiệm, sự đồng biến động của giá cổ phiếu được
đo lường bằng R2 của mô hình thị trường (1) theo
công thức sau:
SYNCH = log(R
2
/(1-R
2
))
Sự đồng biến động cổ phiếu càng cao thì biến
động của lợi tức cổ phiếu được giải thích phần
lớn bằng các thông tin chung trên thị trường và ít
chịu ảnh hưởng bởi thông tin đặc thù của doanh
nghiệp (tính thông tin của cổ phiếu càng thấp).
Đo lường tính thông tin của giá cổ phiếu
dựa trên xác suất các giao dịch có thông tin
Một số nghiên cứu khác tiến hành đo lường
tính thông tin của giá cổ phiếu bằng xác suất
các giao dịch có thông tin PIN (probability of
informed trading) dựa trên quan điểm khi các yếu
tố khác không đổi vì thông tin dần chuyển hoá
vào giá cổ phiếu thông qua các giao dịch có thông
tin nên giao dịch của các nhà đầu tư có thông tin
càng nhiều, càng nhiều thông tin được chứa đựng
trong giá cổ phiếu. PIN được phát triển từ nghiên
cứu Easley và cộng sự (1997) trong mô hình cấu
trúc vi mô thị trường, cụ thể, giao dịch được phân
loại theo 2 nhóm nhà đầu tư: Các nhà đầu tư có
thông tin giao dịch dựa trên thông tin riêng của
họ và các nhà đầu tư không thông tin giao dịch
dựa trên nhu cầu thanh khoản. Tại thời điểm ban
đầu của mỗi ngày giao dịch, một sự kiện thông
tin riêng xảy ra với xác suất α, xác suất mà thông
tin xấu (tốt) xuất hiện là δ (1 - δ). Giả sử hai nhà
đầu tư có thông tin và không có thông tin tham
gia thị trường theo quy trình Poisson độc lập. Các
giao dịch có thông tin đạt đến tỷ lệ μ chỉ trong các
ngày có sự kiện với thông tin riêng. Các nhà kinh
doanh có thông tin mua vào khi thông tin tích cực
và bán ra khi thông tin tiêu cực. Tỷ lệ đạt được
của các giao dịch mua (bán) không có thông tin
là εb (εs) độc lập với việc xảy ra và dấu hiệu của
sự kiện do thông tin riêng. Dựa trên các thông số
ước tính, xác suất của một đơn hàng từ một nhà
đầu tư có thông tin có thể được tính bằng công
thức sau:
PIN = αμ /(αμ + εb + εs)
Các thông số θ = (α, δ, εb, εs) được ước tính
bằng cách tối đa hoá chức năng có khả năng xảy ra:
L(θ|B, S) = Π
Τ
t =1
L(θ|B
t
, S
t
)
Trong đó, T biểu thị số ngày giao dịch trong
1 năm và B
t
(S
t
) là số đơn hàng mua (bán) trong
ngày t. Các nhà nghiên cứu có thể ước lượng PIN
từ dữ liệu trong ngày. Nghiên cứu của Brockman
& Yan (2009) ủng hộ cho quan điểm PIN phản ánh
lượng thông tin riêng trong giá cổ phiếu.
Đo lường tính thông tin của giá cổ phiếu
dựa trên lượng thông tin về thu nhập
tương lai chứa đựng trong giá cổ phiếu
Một quan điểm khác về phương pháp đo
lường tính thông tin của giá cổ phiếu là dựa trên
nghiên cứu của Collin và cộng sự (1994). Nghiên
Tính thông tin của giá cổ phiếu cho phép nhà
đầu tư trên thị trường nhận diện chất lượng
các quyết định của những nhà quản trị công ty
và lựa chọn công ty chomục đích đầu tư. Quyết
định đầu tư cổ phiếu chỉ trở nên hiệu quả hơn
khi giá cổ phiếu mang tính thông tin cao.
1...,11,12,13,14,15,16,17,18,19,20 22,23,24,25,26,27,28,29,30,31,...90
Powered by FlippingBook