5.1. So ky 2 thang 11 - page 46

48
TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP
Nghiên cứu những ảnh hưởng
của các chỉ tiêu trong báo cáo thường niên
Tiếp theo nghiên cứu về mức độ quan trọng
của các báo cáo trong BCTN ảnh hưởng đến việc
ra quyết định của các đối tượng liên quan, các nhà
nghiên cứu đã tập trung vào tìm hiểu xem các chỉ
tiêu nào trong các báo cáo được công bố bởi các công
ty là có ý nghĩa đối với việc ra quyết định của người
sử dụng thông tin. Ngangan et al (2005) đã tìm ra
sự khác biệt trong việc đánh giá mức độ quan trọng
của các khoản mục công bố giữa người sử dụng ở
các nước phát triển và đang phát triển.
Baker và Haslem (1973) đã tìm ra được dự báo lợi
nhuận là hữu ích đối với NĐT vì nó cung cấp thông
tin phù hợp cho việc ra quyết định đầu tư. Nghiên
cứu cũng thấy được, những thông tin mà NĐT cần
như: Dự báo về tương lai (tương lai công ty, ngành,
tăng trưởng doanh thu, tăng trưởng EPS), các nhân
tố về quá khứ, lịch sử (tăng trưởng EPS, ROR), các
thông tin hiện tại. Trong khi đó, các nhân tố như cổ
tức và thị trường của cổ phiếu (thể hiện ở số lượng
giao dịch, giá giao dịch) được cho là ít quan trọng
đối với việc ra quyết định đầu tư.
Ngoài ra, nghiên cứu cũng chỉ ra rằng, các NĐT
mong muốn có thông tin thêm như chính sách quản
trị, chính sách kế toán, triển vọng tương lai, các hoạt
động của công ty. Theo kết quả của nghiên cứu này
thì đa số đối tượng được điều tra (chiếm 72,4%)
mong muốn có thêm thông tin và thông tin được
mong muốn nhiều nhất là các hoạt động của công
ty, chính sách kế toán của công ty. Mặc dù công bố
thêm thông tin làm tăng chi phí, từ đó làm giảm lợi
nhuận của công ty nhưng vẫn có đến 69,1% người
được hỏi đồng ý công bố thêm thông tin và họ cho
rằng, chi phí này nhỏ, không ảnh hưởng lớn đến cổ
tức được chia.
Ngoài ra, một số nghiên cứu trước đây như
nghiên cứu của Beaver (1968), Morse (1981), Pate và
Wolfson (1984) đã chỉ ra rằng, lợi nhuận là nguồn
thông tin bị giới hạn bởi thời điểm công bố. Điều
này có nghĩa là các công bố về lợi nhuận chỉ thực sự
có ý nghĩa với việc ra quyết định đầu tư khi nó được
công bố đúng thời điểm.
Cũng nghiên cứu về lợi nhuận, Chen C., Chen
S. và Su (2001) đã tiến hành điều tra tất cả các
công ty niêm yết trên sàn chứng khoán Thượng
Hải từ năm 1991 đến 1998 cho thấy, lợi nhuận kế
toán là thông tin có ý nghĩa khi các công ty kinh
doanh có lãi nhưng không có ý nghĩa khi các công
ty kinh doanh thua lỗ. Nghiên cứu cũng cho thấy
rằng, mặc dù thị trường chứng khoán còn non trẻ
và các thông tin trên báo cáo còn chưa phù hợp
nhưng thông tin kế toán có ý nghĩa trong việc ra
quyết định đầu tư của các NĐT Trung Quốc và nó
có nghĩa hơn đối với các công ty mà cổ phiếu có
tính thanh khoản cao. Tuy nhiên, các tác giả cũng
thấy hạn chế của nghiên cứu này là chỉ tập trung
vào nghiên cứu lợi nhuận kế toán ảnh hưởng đến
quyết định của NĐT mà chưa nghiên cứu đến các
nhân tố khác.
Như vậy, trong rất nhiều thông tin để đưa ra
quyết định đầu tư chứng khoán, NĐT cần có các
thông tin về tình hình tài chính, nguồn tài chính,
dự báo quản lý, các dự án đầu tư và chính sách tài
chính. NĐT có thể tiếp cận được các thông tin này
từ nhiều nguồn khác nhau như báo cáo của sàn giao
dịch, báo chí, các cơ quan nhà nước và một trong
các nguồn thông tin quan trọng là BCTN. Các nhà
nghiên cứu đã cố gắng tìm hiểu những loại thông
tin và nguồn thông tin nào mà các đối tượng liên
quan đến công ty, đặc biệt là NĐT cần. Các thông
tin từ khoản mục được cho là quan trọng bao gồm:
Khả năng sinh lời hiện tại và tương lai, chính sách
chia cổ tức, hỗ trợ từ chính phủ, giá cổ phiếu và tăng
trưởng tương lai, các thành viên HĐQT, các hoạt
động kinh doanh.
Kết luận
Kết quả nghiên cứu của các nhà kinh tế đã
cho thấy, ảnh hưởng của BCTN đến việc đầu
tư chứng khoán là rất lớn, đây là nguồn thông
tin cơ bản để nhà đầu tư tìm hiểu về tình hình
hoạt động kinh doanh của công ty. Đối với các
nền kinh tế đang phát triển, tầm ảnh hưởng của
BCTN càng lớn nên để có một thị trường chứng
khoán lành mạnh, ổn định và phát triển thì các
công ty cũng như chính phủ của các nước cần
cung cấp BCTN hoàn thiện hơn nữa để tạo lòng
tin và thu hút được NĐT vào thị trường chứng
khoán, từ đó, đem lại nguồn vốn ổn định cho các
công ty tham gia thị trường này.
Tài liệu tham khảo:
1. Anderson, A. (1981), “The usefulness of accounting and other onformation
disclosed in corporate annual reports to institutional investors in Australia”,
Accounting and business Research, Vol. 11, No. 44, pp.259-265;
2. Abu-Nassar, M. and Rutheford, B. A. (1996), “External Users of Financial
reports in less developed countries: the case of Jordan”, British Accounting
Review,Vol. 28, pp.73-87;
3. Baker, H. K. and Haslem, J. A. (1973), “Information needs of individual
investors”, The Journal of Accountancy, Vol. 136, No. 5, pp 64-69;
4. Lê Tú Oanh (2012), “Hoàn thiện hệ thống BCTN trong các công ty cổ phần
niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam”, Luận án tiến sỹ, Đại học
Kinh tế Quốc dân.
1...,36,37,38,39,40,41,42,43,44,45 47,48,49,50,51,52,53,54,55,56,...90
Powered by FlippingBook