TCTC (2018) so 4 ky 2 đầy đủ - page 14

TÀI CHÍNH -
Tháng 04/2018
15
rõ ràng, cụ thể, tăng tính tự chịu trách nhiệm của các
cơ quan quản lý, tránh chồng chéo, phân tán.
Cần xây dựng quy trình quản lý kể từ khi xác
định quy mô vay nợ, nguồn vốn vay, quá trình đàm
phán, ký kết hợp đồng vay nợ, lập kế hoạch sử dụng
vốn vay cho đến khi thanh toán đầy đủ cả gốc và
lãi; Quản lý rủi ro liên quan bao gồm rủi ro tỷ giá,
rủi ro lãi suất, các điều kiện hay ràng buộc khi sử
dụng vốn vay; Tiến hành đánh giá hiệu quả sử dụng
vốn của các doanh nghiệp (DN) có vốn vay nợ nước
ngoài; Duy trì hệ thống thông tin nợ đảm bảo tính
xuyên suốt, hệ thống và chính xác...
Thứ hai,
đảm bảo công tác vay và trả nợ. Quản lý
nợ nước ngoài của Việt Nam cần đảm bảo nguyên
tắc hiệu quả, nguyên tắc sinh lời và bảo đảm an
toàn nợ công. Theo đó, vốn vay cần được đầu tư
vào những ngành, lĩnh vực có hiệu quả sử dụng
cao, tránh sự đầu tư dàn trải; Đồng thời, gắn chặt
quyền sử dụng vốn với trách nhiệm hoàn trả các
khoản nợ gốc và lãi, tăng tính tự chịu trách nhiệm
của các chủ thể sử dụng vốn vay, hạn chế đến mức
thấp nhất tình trạng bên bảo lãnh phải đứng ra
gánh vác các nghĩa vụ tài chính thay cho các đối
tượng sử dụng vốn.
Thứ ba,
cần cân đối giữa nguồn vốn trong nước
và nguồn vốn vay nước ngoài, giảm thiểu sự phụ
thuộc vào bên ngoài. Một quốc gia có nền kinh tế
và tài chính lành mạnh cần dựa chủ yếu vào sức
mạnh nội lực, nguồn vốn từ nước ngoài chỉ nên
được xem là nguồn vốn bổ sung cho quá trình phát
triển. Chính vì vậy, trong thời gian tới, Việt Nam
cũng cần khai thác triệt để các nguồn vốn tạm thời
nhàn rỗi trong dân cư thay vì vay nợ nước ngoài để
bù đắp cho thiếu hụt ngân sách nhà nước (NSNN)
hay thâm hụt cán cân thanh toán.
Thứ tư,
lựa chọn nguồn vốn phù hợp với nhu cầu
tài trợ và phù hợp với tính chất của từng nguồn vốn.
Cần khai thác tối đa nguồn vốn hỗ trợ phát triển
chính thức vì đây là nguồn vốn có chi phí thấp, thời
hạn vay và thời gian ân hạn dài. Tuy nhiên, cần thận
trọng trong quá trình đàm phán để tránh những
ràng buộc bất lợi.
Việt Nam chính thức vượt qua ngưỡng thu nhập
thấp, trở thành quốc gia có thu nhập trung bình
12,9% và 4,6% trong năm 2016. Các loại ngoại tệ như
đồng GBP, AUD, CAD và một số ngoại tệ khác ngày
càng chiếm một tỷ lệ nhỏ trong tổng số ngoại tệ đi
vay nợ của khu vực công, khi chỉ chiếm dưới 3%
trong năm 2016 so với giá trị hơn 16% tại năm 2006.
Điều này chỉ ra rằng, cơ cấu ngoại tệ trong vay nợ
Việt Nam đang có xu hướng phụ thuộc nhiều hơn
vào một số đồng tiền nhất định.
Cơ cấu nợ nước ngoài theo tính chất ưu đãi của khoản vay
Theo Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế
(OECD), các khoản vay được coi là các khoản vay
ưu đãi khi yếu tố ưu đãi của khoản vay đó (GE) lớn
hơn 25%. Việc chính thức trở thành quốc gia có thu
nhập trung bình vào năm 2010 đã làm thay đổi cơ
cấu các khoản nợ của Việt Nam xếp theo mức độ ưu
đãi. Trước năm 2010, nợ của Việt Nam chủ yếu là
nợ ODA song phương và đa phương với các khoản
vay mức ưu đãi lớn bao gồm kỳ hạn dài, thời gian
ân hạn lớn và lãi suất rất thấp. Tỷ trọng các khoản
vay ưu đãi thời kỳ 2006 - 2016 liên tục giảm đi cùng
với sự gia tăng nhanh chóng tỷ lệ các khoản nợ có
tính chất thương mại.
Tỷ trọng các khoản vay ưu đãi tại thời điểm 2006
lên tới 72,55%, 2007 là 66,85%, 2008 là 70,81%. Sự
sụt giảm các khoản ưu đãi sâu nhất kể đến thời kỳ
2009 - 2010 từ 68,32% xuống còn 55,35% trong tổng
dư nợ nước ngoài khu vực công. Từ năm 2012, các
khoản vay thương mại luôn chiếm trên 50% tổng
khối lượng nợ với 60% vào năm 2016.
Kể từ sau năm 2017, có rất nhiều chủ nợ song
phương và đa phương đã có kế hoạch hoặc chính
thức công bố ngừng cấp vốn ODA cho Việt Nam.
Trong đó ADB đang xem xét cắt bỏ hoàn toàn khoản
vay ưu đãi cho Việt Nam vào năm 2019 và WB chính
thức thông báo dừng cấp vốn vay ưu đãi cho Việt
Nam vào 7/2017.
Một số quan điểm về tính bền vững nợ nước ngoài
Có nhiều quan điểm khác nhau về tính bền vững
của nợ nước ngoài và mỗi nền kinh tế lại có định
hướng tính bền vững cho nợ nước ngoài khác nhau.
Đối với Việt Nam, về tính bền vững nợ nước ngoài
có thể xét ở các khía cạnh sau:
Thứ nhất,
tính bền vững nợ nước ngoài cần được
thực hiện thống nhất. Theo đó, hướng tới vay nợ
nước ngoài một cách bền vững dựa theo kết quả là
các chỉ tiêu được đề xuất bởi các tổ chức quốc tế cần
được thực hiện trong hệ thống tổng thể quản lý tài
chính quốc gia, hài hòa với các chính sách quản lý
kinh tế vĩ mô và phù hợp với thông lệ quốc tế. Việc
quy định chức năng, nhiệm vụ của các chủ thể cần
Nợ nước ngoài khu vực công của Việt Nam chủ
yếu tập trung vào bốn loại ngoại tệ đó là USD,
JPY, EUR và SDR. Trong đó USD là đồng tiền
chủ chốt trong rổ tiền tệ đối với các khoản nợ
nước ngoài, khi liên tục chiếm tới khoảng 50%
trong toàn giai đoạn 2006 - 2016.
1...,4,5,6,7,8,9,10,11,12,13 15,16,17,18,19,20,21,22,23,24,...116
Powered by FlippingBook