80
KẾ TOÁN - KIỂM TOÁN
phận này lại được chia thành khu vực chẳng hạn:
nhà hàng Lam Kinh, nhà hàng Thọ Xuân, khu vực
bar café. Theo đó, việc thông tin chi phí được báo cáo
theo bộ phận là căn cứ cơ bản để đánh giá hoạt động
kinh doanh của từng bộ phận. Tiếp theo là nhu cầu
thông tin chi phí chệnh lệch cũng được đánh giá trên
mức trung bình (Giá trị trung bình 3,24).
Nhìn chung, các nhà quản trị đánh giá mức độ
đáp ứng nhu cầu thông tin chi phí phục vụ đánh
giá hoạt động ở mức thấp. Cụ thể, 57,9% trả lời mức
3, 21,05% trả lời mức 3, 21,05% trả lời mức 4. Theo
khảo sát nghiệp vụ đối với bộ phận kế toán, 100%
các khách sạn chưa thực hiện đánh giá hoạt động
theo phương pháp chi phí chênh lệch, chưa xác định
mức độ chênh lệnh về chi phí thực tế phát sinh, chi
phí định mức, đồng thời, chưa tiến hành so sánh
chi phí thực tế phát sinh kỳ này với chi phí thực tế
kỳ trước, chưa áp dụng các phương pháp đánh giá
hoạt động bằng thẻ điểm cân bằng nên chưa khai
thác được những ưu thế của mô hình này. Tuy vậy,
83% khách sạn thực hiện đánh giá hoạt động theo
bộ phận với mức độ đáp ứng nhu cầu nhà quản trị
đánh giá trung bình là 3; bao gồm đánh giá hiệu quả
tiết kiệm chi phí của bộ phận kinh doanh buồng, bộ
phận nhà hàng, bộ phận quầy bar...
Thứ năm,
nhu cầu và mức độ đáp ứng nhu cầu
thông tin chi phí phục vụ ra quyết định kinh doanh.
Đối với nhu cầu thông tin kế toán quản trị chi phí
phục vụ việc ra quyết định kinh doanh, kết quả cho
thấy 42,5% cho là mức độ trung bình, 21,6% cho là
cần thiết, 35,9% cho là rất cần thiết; giá trị trung bình
đạt 3,4. Nhìn chung, nhà quản trị có nhu cầu cao
nhất đối với thông tin chi phí phục vụ ra quyết định
mua hàng (Giá trị trung bình 4,2) bởi lẽ đối với khách
sạn Mường Thanh, đơn vị tiêu thụ rất nhiều các loại
nguyên vật liệu, hàng hóa với nhiều chủng loại khác
nhau, được nhiều nhà cung cấp chào hàng liên tục,
việc phải ra quyết định mua hàng không chỉ bao gồm
lựa chọn nhà cung cấp, số lượng hàng mua, giá mua
mà còn xác định chính xác thời điểm mua hàng là rất
quan trọng.
Nhu cầu thông tin chi phí phục vụ ra quyết định
về giá được đánh giá kém quan trọng hơn, bởi lẽ việc
định giá đối với kinh doanh lưu trú và kinh doanh
ăn uống tại khách sạn phụ thuộc nhiều vào thương
hiệu của khách sạn, đặc điểm chất lượng của dịch vụ
và tương đối cố định qua các thời kỳ, ít khi thay đổi.
Đối với thông tin chi phí phục vụ phân tích chi phí
khối lượng lợi nhuận để ra quyết định hiện nay chưa
được vận dụng ở khách sạn, tuy nhiên nhà quản trị
vẫn đánh giá sự cần thiết ở mức độ trung bình (Giá
trị trung bình 3,08).
Các nhà quản trị đánh giá mức độ đáp ứng nhu
cầu thông tin chi phí phục vụ ra quyết định ở mức
trung bình, với giá trị trung bình đạt 3,2. Cụ thể,
63,5% trả lời ở mức 3, 33,2% trả lời ở mức 4, nhưng
chỉ có 3,3% trả lời ở mức 5. Trong các thông tin phục
vụ ra quyết định, nhà quản trị đánh giá tốt thông tin
chi phí phục vụ ra quyết định mua hàng với giá trị
trung bình là 4,1. Theo khảo sát nghiệp vụ đối với
bộ phận kế toán, các khách sạn đang thực hiện ra
quyết định mua hàng theo phương pháp tính toán
các chi phí hàng mua và chi phí liên quan đến việc
mua hàng, thực hiện so sánh giá giữa các nhà cung
cấp để ra quyết định lựa chọn nhà cung cấp. Tuy
nhiên, các khách sạn chưa áp dụng bất kỳ mô hình
khoa học cụ thể nào cho quá trình ra quyết định
mua hàng, việc vận dụng TCO, TQM, EOQ, POQ
được nhà quản trị cho là không cần thiết.
Thông tin về mối quan hệ chi phí - khối lượng -
lợi nhuận phục vụ ra quyết định quản lý tại khách
sạn được các nhà quản trị đánh giá ở mức độ dưới
trung bình (Giá trị trung bình đạt 3,01). Có đến 60%
các khách sạn chưa vận dụng phân tích mối quan hệ
này để hỗ trợ tốt hơn việc ra quyết định. Điều này
căn bản chưa thực hiện được là do các khách sạn
chưa tiến hành phân loại chi phí theo mối quan hệ
chi phí với khối lượng hoạt động (chi phí biến đổi
và chi phí cố định).
Kết luận
Theo kết quả khảo sát, tác giả nhận thấy rằng,
các nhà quản trị tại các khách sạn này đều đánh giá
cao vai trò của thông tin kế toán quản trị, nhận định
sự cần thiết của các thông tin này trong việc thực
hiện chức năng quản trị. Nhu cầu thông tin kế toán
quản trị chi phí đều đạt trên giá trị trung bình gần
với mức cần thiết từ 3,2-4,72. Tuy nhiên, tùy vào đặc
điểm và khả năng cung cấp thông tin kế toán quản
trị ở thời điểm hiện nay, mức độ đáp ứng nhu cầu
đối với một số thông tin kế toán quản trị chi phí có
phần hạn chế.
Tài liệu tham khảo:
1. Hồ Mỹ Hạnh (2013), Tổ chức hệ thống thông tin kế toán quản trị chi phí
trong các doanh nghiệp may Việt Nam;
2. Tập đoàn Mường Thanh, Tài liệu kế toán các năm 2016-2017;
3. Tập đoàn Mường Thanh, Báo cáo tổng kết các năm 2016-2017;
4. Kết quả xử lý dữ liệu điều tra tại các khách sạn thuộc tập đoàn Mường
Thanh, tháng 8/2017;
5. Halil Akmese và cộng sự (2017), The Role of Accounting Information Systems
in Hotel Management Process: The Case of Turkey, Middle East Conference on
Global Business, Economics, Finance andManagement Sciences (ME17Dubai
May Conference).