TCTC ky 2 thang 9-2016 - page 61

TÀI CHÍNH -
Tháng 9/2016
63
động tự nguyện cũng như trích đủ dự phòng rủi ro
khi cho vay theo quy định Ngân hàng Nhà nước tại
Thông tư 07/2009/TT-NHNN và Thông tư 15/2010/
TT-NHNN.
Bảy là,
về công nghệ thông tin, do tính giản đơn
của nghiệp vụ nên việc đầu tư hệ thống công nghệ
thông tin hiện đại như các ngân hàng thương mại
là chưa cần thiết. Hơn nữa, vốn chủ sở hữu của các
tổ chức cũng bị hạn chế, do đó chỉ cần lựa chọn hệ
thống công nghệ thông tin đủ quản lý tích hợp, bảo
mật và an toàn, phù hợp từng giai đoạn phát triển.
Tuy nhiên, vấn đề cần thiết là quản trị được rủi ro,
cho phép chia sẻ hoặc cập nhật tự động thông tin về
CIC để các tổ chức tài chính vi mô khác có thể giám
sát khách hàng và phòng ngừa rủi ro chung.
Tám là,
về nhân sự, ngoài lực lượng nhân sự
khung theo quy định Ngân hàng Nhà nước, các nhân
sự còn lại có thể làm việc bán thời gian và hưởng
hoa hồng nhằm làm gọn nhẹ bộ máy và tiết giảm
chi phí cho tổ chức tài chính vi mô. Họ có thể đến
từ các đoàn thể phường/xã hoặc nhân viên khuyến
nông, bảo hiểm… được đào tạo các kiến thức cơ bản
về hoạt động tài chính vi mô.
Tóm lại, tổ chức tài chính vi mô là một loại hình
tổ chức tín dụng có vai trò quan trọng trong nền
kinh tế như các loại hình tổ chức tín dụng khác. Vì
vậy, hoàn thiện và phát triển loại hình tài chính vi
mô là hết sức cần thiết nhằm góp phần hoàn thiện
hệ thống tài chính nói riêng, thúc đẩy phát triển bền
vững đời sống xã hội nói chung.
Tài liệu tham khảo:
1. Nguyễn Kim Anh (2011), Tài chính vi mô với giảm nghèo tại Việt Nam –
Kiểm định và so sánh, NXB Thống Kê, 2011;
2. Lê Thanh Tâm và các thành viên (2011), “Phát triển hoạt động tài chính vi
mô Việt Nam: Kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn ứng dụng”, Đề tài khoa học
cấp cơ sở mã số CS.2010.07, Đại học Kinh tế Quốc dân, 2010-2011;
3. Nghị định 28/2005/NĐ-CP và Nghị định 165/2007/NĐ-CP về tổ chức và
hoạt động của tổ chức tài chính vi mô nhỏ tại Việt Nam, Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam;
4. Ledgerwood (1999), Rural Finance Handbook, An Institutional and Financial
Perspective, The World Bank, Washington, D.C. 1999;
5. The World Bank Financial Sector Development (2001), Department The
Experience in Ghana and the Philippines.
tác giả, cần quan tâm giải quyết một số vấn đề sau:
Một là,
về quản lý nhà nước, cần xây dựng lộ trình
chuyển đổi các tổ chức tài chính vi mô bán chính
thức sang chính thức và trực thuộc quản lý Ngân
hàng Nhà nước thay vì phân tán ở các địa phương
như hiện nay. Tương tự, các tổ chức tài chính vi mô
phi chính thức cần có hướng dẫn và khuyến khích
chuyển đổi sang chính thức để hạn chế “tín dụng
đen” gây hậu quả đến đời sống xã hội, nhất là các
hộ nghèo.
Hai là,
về cổ đông chiến lược, khuyến khích
các tổ chức tín dụng tham gia với vai trò cổ đông
chiến lược nhằm hỗ trợ các tổ chức tài chính vi
mô nâng cao tính chuyên nghiệp trong việc cung
ứng dịch vụ tài chính. Muốn vậy, Ngân hàng Nhà
nước cần ưu đãi cho tổ chức tín dụng như nguồn
vốn tham gia vào tổ chức tài chính vi mô không bị
giảm trừ khi tính tỷ lệ an toàn vốn hoạt động của
tổ chức tín dụng.
Ba là,
về nguồn vốn hoạt động, bên cạnh các
nguồn vốn từ tiết kiệm bắt buộc, vốn tài trợ khác
thì các tổ chức tài chính vi mô cần có cơ chế cộng
biên độ lãi suất khi huy động tiết kiệm tự nguyện
để tạo nguồn vốn ổn định lâu dài. Tương tự, khi cho
vay cũng được cộng biên độ cao hơn các mức vay
thông thường nhằm đảm bảo tính linh hoạt với từng
đối tượng vay và đảm bảo thu nhập cho tổ chức tài
chính vi mô để tồn tại. Riêng cách thức cho vay,
khuyến khích cho vay theo tổ/nhóm như ở các nước
để tăng tính hỗ trợ và thanh toán lẫn nhau giữa các
thành viên trong tổ.
Bốn là,
về lãi suất và phí, các tổ chức tài chính
vi mô cần hướng tới khung lãi suất thị trường
để tránh tâm lý ỷ lại của người vay hoặc tiêu cực
trong xét duyệt cho vay, bảo lãnh, thanh toán. Theo
Ledgerwood (1999), hoạt động tổ chức tài chính vi
mô cần hướng đến tính hiệu quả để đảm bảo sự
phát triển bền vững.
Năm là,
về sản phẩm dịch vụ, các cổ đông chiến
lược cần hỗ trợ tổ chức tài chính vi mô xây dựng sản
phẩm dịch vụ đa dạng, phù hợp cho vay nhỏ lẻ như
cho vay trả góp, tái tục, lưu vụ với mức lãi suất có
tích lũy. Các nghiệp vụ chuyển tiền, bảo lãnh, đại
lý bảo hiểm, thu chi hộ… cần phát triển theo nhu
cầu và năng lực của tổ chức tài chính vi mô. Trong
tương lai phát triển các sản phẩm tài chính phái sinh
để phòng ngừa rủi ro và tăng hiệu quả hoạt động.
Sáu là,
về rủi ro và an toàn hoạt động, các tổ
chức tài chính vi mô cần có hệ thống báo cáo đầy
đủ, đáp ứng các yêu cầu kế toán, quản trị và phải
tuân thủ triệt để các tiêu chí an toàn hoạt động, vẫn
trích lập dự phòng rủi ro đối với nguồn vốn huy
Chỉ riêng Ngân hàng Chính sách Xã hội, đến
hết năm 2015, có gần 11.000 điểm giao dịch
xã, huy động hơn 140.000 tỷ đồng để cho vay
với tổng dư nợ đạt khoảng 134.000 tỷ đồng,
tăng gần 19 lần so với thời điểm thành lập
năm 2003.
1...,51,52,53,54,55,56,57,58,59,60 62,63,64,65,66,67,68,69,70,71,...74
Powered by FlippingBook