Page 14 - [Thang 9-2024] Ky 2
P. 14

TÀI CHÍNH  - Tháng 9/2024

           gia giai đoạn 2021 - 2025, định hướng đến năm 2030   khung pháp lý điều chỉnh các quan hệ xã hội liên
           đang được xây dựng, hoàn thiện. Các cơ sở dữ liệu   quan đến AI, tư cách pháp lý của AI và thực thể
           quốc gia, cơ sở dữ liệu ngành tiếp tục được hoàn   mang AI, quyền sở hữu trí tuệ, quyền riêng tư hay
           thiện tạo nền tảng cho Chính phủ điện tử. Hệ thống   trách nhiệm bồi thường thiệt hại liên quan đến AI.
           kết nối, chia sẻ dữ liệu tiếp tục được nâng cấp, hiệu   Đối với các công nghệ blockchain hay máy tự học
           quả sử dụng được nâng cao. Tỷ lệ hồ sơ trực tuyến   còn thiếu các quy định về bảo vệ cơ sở dữ liệu, dữ
           toàn trình đến hết năm 2023 đạt 54,2%. Các cơ quan   liệu  cá  nhân,  thông  tin  riêng  tư;  vấn  đề
           và bộ ngành đã thành công trong việc đơn giản hóa   quyền cá nhân…
           2.500  quy  định  kinh  doanh  và  528/1.086  thủ  tục   Ba là, hạ tầng cho kinh tế số chưa đồng bộ, năng
           hành chính liên quan đến công dân. Việc kết nối,   lực kết nối số còn thấp. Việc xây dựng hệ thống cơ
           chia sẻ dữ liệu mang lại kết quả cụ thể, giải quyết   sở dữ liệu quốc gia còn hạn chế. Năng lực nghiên
           được các bài toán liên ngành mà trước đây rất khó   cứu và ứng dụng các thiết bị còn hạn chế, đa phần
           giải quyết.                                        được nhập khẩu với giá cao. Các sản phẩm Việt
                                                              Nam  có  thể  tự  sản  xuất  (như  điện  thoại  thông
           Một số tồn tại, hạn chế phát sinh
                                                              minh…), mới chủ yếu ở giai đoạn đầu, chưa hoàn
              Những  phân  tích  trên  cho  thấy,  Việt  Nam  đã   toàn làm chủ công nghệ, giá thành sản xuất cao và
           bước đầu xây dựng được khung pháp lý, chính sách   khó cạnh tranh. Hạ tầng thanh toán số chưa đồng
           cho phát triển kinh tế số, chủ động tham gia vào   bộ. Các điểm bán hàng sử dụng máy POS để thanh
           CMCN  4.0.  Tuy  nhiên,  bên  cạnh  các  kết  quả  đạt   toán còn rất hạn chế ở các khu vực nông thôn và
           được, hệ thống thể chế, chính sách của Việt Nam    miền núi. Việc phủ sóng thông tin di động vùng
           vẫn còn một số hạn chế, chưa thực sự tạo thuận lợi   lõm còn khó khăn. Triển khai nền tảng số quốc gia
           cho phát triển kinh tế số. Cụ thể:                 còn chậm; dịch vụ công trực tuyến chưa thực sự
              Một là, môi trường pháp lý và thể chế để phát   thuận tiện, chưa khuyến khích người dân tiếp cận
           triển kinh tế số chưa đầy đủ, chưa chặt chẽ, thiếu   sử dụng. Một số cơ sử dữ liệu quốc gia chưa được
           đồng bộ và minh bạch. Các quy định thường không    hoàn thành hoặc chưa được kết nối, chia sẻ khai
           theo kịp với tốc độ số hóa nhanh chóng của nền     thác hiệu quả. Dữ liệu phục vụ quản lý kinh tế số,
           kinh tế, còn có khoảng cách giữa quy định pháp luật   xã  hội  số  còn  hạn  chế,  chi  phí  thu  thập  cao,
           với việc thực thi trong thực tế, chưa có hành lang   độ trễ dài.
           pháp lý cho thí điểm triển khai áp dụng các mô hình   Bốn là, nguồn nhân lực chất lượng cao cho phát
           kinh doanh, dịch vụ mới. Việt Nam còn thiếu và yếu   triển kinh tế số còn hạn chế. Đa phần lao động Việt
           trong việc tạo lập hành lanh pháp lý để thúc đẩy các   Nam thiếu kỹ năng về công nghệ thông tin và các kỹ
           nền tảng “mềm” cho kinh tế số như xây dựng các hệ   năng số khác như lập trình các chương trình máy tự
           thống cơ sở dữ liệu thống nhất trong quản lý nhà   học, phân tích dữ liệu lớn, nghiên cứu phát triển trí
           nước, hoặc đảm bảo sự cân bằng giữa quyền riêng    tuệ nhân tạo… Đào tạo nghề, đại học và sau đại học
           tư, bảo mật dữ liệu, và tạo lập hệ thống cơ sở dữ liệu   chưa đáp ứng được yêu cầu, thiếu sự gắn kết giữa
           mở, cho phép doanh nghiệp có thể tiếp cận và chia   giáo dục và thực tiễn. Các mô hình đào tạo bậc cao
           sẻ thông tin, dữ liệu dễ dàng, tiết kiệm chi phí. Hệ   hiện nay còn thiên về lý thuyết và ít thực hành.
           quả là một số văn bản pháp lý rất chung chung, gây    Năm là, trình độ khoa học công nghệ còn hạn chế,
           khó cho doanh nghiệp cũng như các cơ quan quản     năng lực tiếp thu công nghệ của các doanh nghiệp
           lý, gây tâm lý vừa làm vừa e dè, ko dám đưa ra     Việt Nam còn ở mức thấp. Việc tiếp cận các công
           quyết sách và các giải pháp đột phá.               nghệ mới chủ yếu theo hướng áp dụng các công
              Hai  là,  hệ  thống  luật  pháp  của  Việt  Nam  còn   nghệ có sẵn dưới hình thức liên doanh thực hiện với
           thiếu những quy định phù hợp cho một số mô hình    các  đối  tác  nước  ngoài  đem  đến,  chưa  có  nhiều
           kinh tế dựa trên nền tảng số, thiếu các chính sách   doanh  nghiệp  mạnh  dạn  đầu  tư  cho  nghiên  cứu
           đối với sự phát triển của một số công nghệ cốt lõi   triển khai các công nghệ mới. Bên cạnh đó, khu vực
           của  CMCN  4.0  như  blockchain,  trí  tuệ  nhân  tạo   tư nhân chưa thực sự đổi mới sáng tạo. Chỉ số công
           (AI), máy tự học (machine learning). Ngoài một số   nghệ và đổi mới sáng tạo, vốn con người, tiếp thu
           chủ  trương  hiện  có  như  Chiến  lược  quốc  gia  về   công nghệ ở doanh nghiệp, tác động của công nghệ
           cuộc CMCN 4.0 và một số văn bản về tăng cường      thông tin đến dịch vụ và sản phẩm mới của Việt
           năng lực tiếp cận CMCN 4.0, hành lang pháp lý đối   Nam xếp thứ hạng thấp. Sự tham gia của doanh
           với phát triển các công nghệ 4.0 còn rất sơ khai.   nghiệp vào hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia còn
           Đối với lĩnh vực trí tuệ nhân tạo, chưa có luật và   rất yếu. Đây cũng là một nguyên nhân khiến các sản

                                                                                                           13
   9   10   11   12   13   14   15   16   17   18   19