Page 9 - [Thang 12-2024] Ky 2
P. 9

HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ KẾ TOÁN, KIỂM TOÁN

          không  được  gửi  ra  ngoài  đơn  vị  kế  toán  không   hưởng  xấu  đến  môi  trường  kinh  doanh.  Một  số
          phát sinh nội dung này. Vì vậy, nếu quy định nội   các đơn vị kế toán thuộc lĩnh vực kinh doanh lập
          dung này là bắt buộc thì sẽ gây khó khăn, vướng   BCTC, theo đúng biểu mẫu, nhưng phương pháp
          mắc cho đơn vị phải tuân thủ yêu cầu bắt buộc      lập chưa tuân thủ chuẩn mực kế toán và chế độ kế
          trong  khi  một  số  chứng  từ  kế  toán  không  phát   toán nên còn có sai sót, làm ảnh hưởng đến quyền
          sinh nội dung này.                                 và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư, những người
            Việc  bỏ  yêu  cầu  bắt  buộc,  không  có  nghĩa  là   làm BCTC. Một số đơn vị lập báo cáo cho một số
          chứng từ không có nội dung này, mà tùy theo từng   mục đích đặc biệt như cung cấp riêng cho nhà đầu
          chứng từ cụ thể, đơn vị vẫn lập chứng từ kế toán   tư nước ngoài, báo cáo riêng về thuế, đánh giá xếp
          với các thông tin khác, ngoài các thông tin bắt buộc,   hạng  tín  nhiệm...  nhưng  vẫn  gọi  là  BCTC,  điều
          trong đó có thể có nội dung “Tên, địa chỉ cơ quan,   này làm cho người sử dụng BCTC hiểu chưa đúng
          tổ chức, đơn vị, hoặc cá nhân nhận chứng từ kế     về tình hình tài chính, dẫn đến đưa ra các quyết
          toán” (do theo quy định tại khoản 2 Điều 16 Luật   định không phù hợp. Theo đó, nội dung về BCTC
          Kế  toán  thì  ngoài  những  nội  dung  chủ  yếu  của   sửa đổi, bổ sung như sau:
          chứng từ kế toán, chứng từ kế toán có thể có thêm    (i) Sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 29 Luật Kế
          những  nội  dung  khác  theo  từng  loại  chứng  từ).   toán:  “1.  Báo  cáo  tài  chính  của  đơn  vị  kế  toán
          Theo đó, Luật số 56/2024/QH15 đã bãi bỏ điểm d     dùng để tổng hợp và thuyết minh về tình hình tài
          khoản 1 Điều 16 Luật Kế toán, quy định về “Tên     chính và kết quả hoạt động của đơn vị kế toán.
          địa chỉ cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc cá nhân nhận   Báo cáo tài chính của đơn vị kế toán phải được lập
          chứng từ kế toán”.                                 và trình bày theo đúng quy định của Chuẩn mực
            Thứ tư, sửa đổi, bổ sung quy định về ký chứng    kế toán, chế độ kế toán mà đơn vị áp dụng, gồm:
          từ kế toán.                                        a) Báo cáo tình hình tài chính; b) Báo cáo kết quả
            Hiện nay, với quá trình chuyển đổi số, các giao   hoạt động; c) Báo cáo lưu chuyển tiền tệ; d) Thuyết
          dịch thương mại điện tử, ngân hàng số, ứng dụng    minh BCTC; đ) Báo cáo khác theo quy định của
          ERP... đã được phát triển rất mạnh mẽ, ngoài hình   pháp luật”.
          thức ký điện tử trên các thông điệp dữ liệu, một số    (ii) Sửa đổi, bổ sung khoản 1, Điều 3 Luật Kế
          đơn vị đã phát triển nhiều hình thức xác nhận khác   toán: “1. Báo cáo tài chính là hệ thống thông tin kinh
          trên các phương tiện điện tử như: Mã OTP, xác thực   tế, tài chính của đơn vị kế toán được lập và trình bày
          cấp độ 2 như VneID dùng để xác thực căn cước, giấy   theo đúng quy định của chuẩn mực kế toán, chế
          phép lái xe; xác thực sinh trắc học... Mục tiêu, bản   độ kế toán.”
          chất của các hình thức xác nhận này cũng tương tự   Về việc bổ sung chức năng, nhiệm vụ của Ngân
          như chữ ký của người thực hiện giao dịch để xác    hàng Nhà nước, Ngân hàng Nhà nước là cơ quan quản
          nhận trách nhiệm của mình.                        lý các tổ chức tín dụng theo Luật tổ chức tín dụng, cơ
            Do khoản 4 Điều 19 Luật Kế toán chỉ quy định     quan giám sát các quy trình nghiệp vụ đặc thù của
          “Chứng từ điện tử phải có chữ ký điện tử....” nên   hoạt động ngân hàng nhưng không được giao nhiệm
          dẫn đến cách hiểu là đối với chứng từ kế toán, đơn   vụ ban hành Chế độ kế toán áp dụng cho tổ chức tín
          vị  không  được  phép  áp  dụng  các  hình  thức  xác   dụng. Điều này dẫn đến khó khăn trong quản lý điều
          nhận khác. Vì vậy, mặc dù Luật Giao dịch điện tử   hành của Ngân hàng Nhà nước, tiềm ẩn rủi ro cho cả
          đã có quy định các hình thức xác nhận khác (khoản   hệ thống vì các lý do sau đây:
          4 Điều 22), nhưng do Luật Kế toán quy định như       Một là, Ngân hàng Nhà nước là cơ quan quản lý,
          trên nên chưa đảm bảo tính đồng bộ, gây khó khăn   điều hành, thanh tra, giám sát các tổ chức tín dụng,
          cho việc triển khai trong thực tế, một số ý kiến còn   trực tiếp nắm bắt và chỉ đạo các nghiệp vụ của lĩnh
          cho rằng cản trở quá trình chuyển đổi số. Theo đó,   vực ngân hàng, tổ chức tín dụng. Vì vậy, nếu Ngân
          khoản 4 Điều 19 Luật Kế toán sửa đổi, bổ sung như   hàng Nhà nước không có thẩm quyền ban hành
          sau: “4. Chứng từ điện tử phải có chữ ký điện tử   Chế độ kế toán cho các đối tượng thuộc phạm vi
          hoặc  các  hình  thức  xác  nhận  khác  bằng  phương   quản lý thì sẽ không thể bám sát thực tiễn, đáp ứng
          tiện điện tử theo quy định của pháp luật về giao   yêu cầu quản lý của lĩnh vực ngân hàng, từ đó gây
          dịch điện tử.”                                     vướng mắc cho các đơn vị. Trong khi đó, Bộ Tài
            Thứ  năm,  sửa  đổi,  bổ  sung  một  số  quy     chính  đã  ban  hành  quy  định  các  nghiệp  vụ  của
          định về BCTC.                                      ngân hàng nên trên thực tế chế độ kế toán không
            Hiện nay, trong một số trường hợp, tính tuân     đảm bảo sát với thực tiễn, không đáp ứng đầy đủ
          thủ của một số doanh nghiệp chưa cao, gây ảnh      hoạt  động  của  các  ngân  hàng  và  yêu  cầu  quản

           8
   4   5   6   7   8   9   10   11   12   13   14