TCTC (2017) so 7 ky 2 (nen) - page 10

10
KINH TẾ - TÀI CHÍNH VĨ MÔ
cải cách chính sách thuế nhằm hướng tới mục tiêu
thu đúng, thu đủ, tiết kiệm chi phí tối đa, giảm tải
cho các hoạt động quản lý thuế. Tại Việt Nam, từ khi
Luật Quản lý thuế ra đời, công tác hành thu của cơ
quan thuế và việc chấp hành thuế của các đối tượng
nộp thuế mang lại hiệu quả cao hơn. Việc áp dụng
các chế tài xử phạt hành vi chậm nộp tờ khai quyết
toán thuế, chậm nộp thuế và công tác “hậu kiểm”
đã góp phần không nhỏ vào việc gia tăng nguồn thu
cho ngân sách nhà nước.
Hướng cải cách thuế sử dụng đất nông nghiệp
trong công tác hành chính đó là việc tiến hành thu
còn gặp nhiều khó khăn do việc phân cấp công tác
thu về địa phương, cơ sở dữ liệu về bảng giá đất,
hạn mức sử dụng, cơ sở tính thuế còn nhiều bất
cập, người dân khó tiếp cận với thông tin gây khó
khăn cho công tác thu thuế và giải thích với người
dân tốn nhiều thời gian và nguồn lực của cơ quan
thuế, gây tình trạng trốn thuế, thất thu thuế. Bên
cạnh đó, không ít trường hợp quy định hạn mức
sử dụng đất ở được UBND cấp tỉnh điều chỉnh thì
phải kê khai lại hồ sơ khai thuế của năm điều chỉnh,
hay người thuê đất đã nộp tiền sử dụng đất thuê
lại phải nộp thuế sử dụng đất phi nông nghiệp (thu
trùng 2 khoản nộp vào ngân sách nhà nước) về sử
dụng đất là chưa phù hợp..., do vậy cần cải cách
trong thời gian tới.
Các rào cản chính trong cải cách thuế
Tuy nhiên, quá trình cải cách thuế trong thực tế
vẫn đối mặt với không ít rào cản, thách thức, trong
đó có các rào cản chính sau:
- Về yếu tố chính trị: Thực tiễn cho thấy, một luật
thuế khi tiến hành cải cách luôn sẽ làm cho người
này được còn người kia chịu thiệt hơn. Vấn đề đặt
ra là cần đảm bảo khoảng cách “được - mất” này ở
mức nhỏ nhất có thể và cần tính tới tổn thất phúc lợi
xã hội vô ích nhỏ nhất. Rào cản này sẽ lớn hơn nếu
phần mất nghiêng về một nhóm lợi ích nhất định
nào đó, từ đó có thể cản trở nỗ lực cải cách chính
sách thuế của Chính phủ. Có những luật thuế nếu
cải cách sẽ mang lại nguồn thu lớn hơn cho ngân
sách và đảm bảo tính công bằng hơn nhưng rào cản
kỹ thuật lại không cho phép. Chẳng hạn, thuế sử
dụng đất phi nông nghiệp có tiềm năng mang lại
nguồn thu lớn cho ngân sách nhưng hiện nay, cơ
sở dữ liệu toàn quốc về các mảnh, thửa đất đang
sử dụng và chưa sử dụng vẫn chưa được “hệ thống
hóa”, cập nhật nên vẫn gây khó khăn cho các địa
phương trong công tác tính và thu thuế.
Mặt khác, việc đánh giá tác động của một luật
thuế mới khi được cải cách đối với hoạt động kinh tế
mang tính chất xã hội và liên quan tới lĩnh vực nông
nghiệp, giáo dục, đào tạo… được ưu đãi với mức
thuế suất thấp, thậm chí không chịu thuế, trong khi
các sản phẩm khác thì chịu thuế 10%. Tương tự, với
Luật Thuế thu nhập cá nhân, người dân có thu nhập
càng cao thì mức thuế suất lũy tiến càng lớn, số thuế
phải nộp càng nhiều thể hiện việc tái phân phối xã
hội hướng tới mục tiêu công bằng hơn.
Ba là,
nâng cao hiệu quả kinh tế.
Cải cách thuế hướng tới việc phân bổ nguồn lực
một cách hiệu quả hơn thông qua khuyến khích
tiết kiệm và đầu tư, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
đồng thời ưu đãi về ngành hay địa điểm đầu tư ở
những vùng khó khăn thông qua việc giảm thuế
suất hay áp dụng mức thuế suất ưu đãi hơn. Luật
Thuế thu nhập doanh nghiệp thể hiện rõ điều này
nhất, với những vùng đặc biệt khó khăn, khi các
doanh nghiệp đầu tư vào đây sẽ được miễn thuế và
áp dụng mức thuế suất ưu đãi trong một thời gian
nhất định. Quy định này vừa mang tính đảm bảo
về mặt hiệu quả kinh tế đồng thời đảm bảo về mặt
công bằng xã hội, giảm việc chênh lệch giàu nghèo
giữa các địa phương trong cả nước. Đồng thời, góp
phần giảm tổn thất phúc lợi vô ích và tính “trung
hòa” của thuế.
Bốn là,
mở rộng cơ sở thuế với thuế suất phù hợp.
Một luật thuế hiệu quả cần có cơ sở thuế rộng
và mức thuế suất phù hợp nhằm phân bổ nguồn
lực đạt hiệu quả, chống thất thu thuế, giảm tổn thất
phúc lợi vô ích nhưng vẫn thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế nhờ sự gia tăng đầu tư và tiêu dùng của các
doanh nghiệp và hộ gia đình. Về phương diện này,
hiện nay, Luật Thuế sử dụng đất phi nông nghiệp
lại có mức thuế suất thấp và cơ sở thuế hẹp, chưa
tính đến việc thu thuế đối với tài sản là bất động
sản gắn liền trên đất. Đây chính là một trong những
điểm hạn chế cần xem xét để cải cách theo hướng
tăng mức thuế suất và cơ sở thuế.
Năm là,
tạo môi trường đầu tư và kinh doanh
thuận lợi bằng việc tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành
chính trong công tác quản lý thuế.
Tính khả thi là một động lực quan trọng trong
Tại Việt Nam, từ khi Luật Quản lý thuế ra đời,
công tác hành thu của cơ quan thuế và việc
chấp hành thuế của các đối tượng nộp thuế
mang lại hiệu quả cao hơn. Việc áp dụng các
chế tài xử phạt hành vi chậm nộp tờ khai quyết
toán thuế, chậm nộp thuế và công tác “hậu
kiểm” đã góp phần không nhỏ vào việc gia
tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước.
1,2,3,4,5,6,7,8,9 11,12,13,14,15,16,17,18,19,20,...86
Powered by FlippingBook