8
          
        
        
          
            Đổi mới cơ chế tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập
          
        
        
          chưa chú trọng quy hoạch theo ngành, lĩnh vực,
        
        
          đặc điểm vùng miền và nhu cầu thực tế. Hệ thống
        
        
          tổ chức các đơn vị sự nghiệp còn phân tán, chồng
        
        
          chéo; chất lượng, hiệu quả dịch vụ thấp.
        
        
          
            Bốn là,
          
        
        
          về cơ chế giá dịch vụ công, mặc dù Luật
        
        
          Giá, Luật Phí và lệ phí đã được ban hành nhưng
        
        
          việc triển khai thực hiện cơ chế giá dịch vụ trong
        
        
          cung cấp các dịch vụ công còn chậm. Trong một
        
        
          số lĩnh vực còn khó khăn, ví dụ khi thực hiện
        
        
          chuyển dần từ thu học phí sang áp dụng cơ chế
        
        
          giá dịch vụ đòi hỏi hệ thống định mức kinh tế
        
        
          kỹ thuật, danh mục dịch vụ sự nghiệp giáo dục
        
        
          trong từng ngành, lĩnh vực làm cơ sở cho việc
        
        
          xác định giá dịch vụ sự nghiệp công phải được
        
        
          xây dựng và hoàn thiện. Ngoài ra, vấn đề kết cấu
        
        
          lương vào giá phải có hướng dẫn cụ thể hơn, đặc
        
        
          biệt trong trường hợp xác định giá dịch vụ giáo
        
        
          dục trên cơ sở thực hiện tính theo mức lương cơ
        
        
          sở, hệ số tiền lương, ngạch bậc, chức vụ đối với
        
        
          các cơ sở giáo dục đại học công lập và định mức
        
        
          lao động theo quy định.
        
        
          
            Năm là,
          
        
        
          chi NSNN cho các ĐVSNCL còn lớn,
        
        
          một số đơn vị hoạt động kém hiệu quả gây lãng
        
        
          phí NSNN. Thực hiện cơ chế tự chủ tài chính còn
        
        
          hình thức, có phần thiếu minh bạch. Việc thực
        
        
          hiện xã hội hoá lĩnh vực dịch vụ sự nghiệp công
        
        
          còn chậm. Về cơ chế tiền lương và thu nhập tăng
        
        
          thêm: (i) Mặc dù quy định giá dịch vụ tính đúng,
        
        
          tính đủ các chi phí nhưng theo quy định hiện hành
        
        
          thì các ĐVSNC vẫn phải dành 40% (đối với lĩnh
        
        
          vực giáo dục) và 35% (đối với lĩnh vực y tế) số thu
        
        
          để lại để tạo nguồn cải cách tiền lương. Nếu thực
        
        
          hiện theo quy định này thì các ĐVSNCL sẽ không
        
        
          còn nhiều nguồn để chi trả thu nhập tăng thêm;
        
        
          (ii) Quy định hệ số thu nhập tăng thêm của chức
        
        
          danh lãnh đạo ĐVSNCL tối đa không quá 2 lần hệ
        
        
          số thu nhập tăng thêm bình quân thực hiện của
        
        
          người lao động trong đơn vị chưa phản ánh đầy
        
        
          đủ và xứng đáng năng lực, vai trò, trách nhiệm
        
        
          của người lãnh đạo đơn vị, không khuyến khích
        
        
          họ toàn tâm toàn ý với công việc.
        
        
          
            Sáu là
          
        
        
          , trong tự chủ tài chính cũng đặt ra một số
        
        
          thách thức: Hiện nay, Nhà nước vẫn chưa có cơ chế
        
        
          hỗ trợ cụ thể cho các ĐVSNCL thực hiện thí điểm
        
        
          cơ chế tự chủ được vay vốn ưu đãi (hoặc hỗ trợ lãi
        
        
          suất) để đầu tư tăng cường cơ sở vật chất, trang
        
        
          thiết bị phục vụ cung cấp dịch vụ công; Hạn mức
        
        
          cho vay tín dụng đối với sinh viên học tại trường
        
        
          đang thí điểm tự chủ còn thấp. Điều này cũng gây
        
        
          khó khăn, ảnh hưởng đến tâm lý người học, nhất
        
        
          là sinh viên nghèo, sinh viên thuộc diện chính
        
        
          sách; Chưa có quy định về điều kiện liên doanh
        
        
          liên kết của ĐVSNCL, về xác định giá trị thương
        
        
          hiệu khi góp vốn liên doanh, liên kết. Vì vậy, cho
        
        
          thấy cần có cơ chế hỗ trợ đầu tư cơ sở vật chất cho
        
        
          các ĐVSNCL có nguyện vọng tham gia thực hiện
        
        
          thí điểm tự chủ.
        
        
          
            Bảy là,
          
        
        
          khó khăn cho các cơ sở giáo dục đại học
        
        
          công lập thực hiện cơ chế tự chủ khi đối tượng
        
        
          chính sách tập trung nhiều, khó đảm bảo cân đối
        
        
          thu, chi của đơn vị khi thực hiện cơ chế tự chủ.
        
        
          Có thể thấy, những hạn chế, thách thức trên
        
        
          xuất phát từ công tác tuyên truyền, quán triệt
        
        
          chủ trương, chính sách, pháp luật về đổi mới
        
        
          ĐVSNCL chưa thường xuyên. Nhiều cấp uỷ
        
        
          đảng, lãnh đạo và người đứng đầu cơ quan, tổ
        
        
          chức, đơn vị nhận thức chưa đầy đủ, thiếu quyết
        
        
          tâm chính trị, thiếu quyết liệt và đồng bộ trong
        
        
          chỉ đạo, tổ chức thực hiện đổi mới, sắp xếp lại,
        
        
          quản lý biên chế các ĐVSNCL; chưa chủ động
        
        
          chuyển các ĐVSNCL sang hoạt động theo cơ chế
        
        
          tự chủ. Bên cạnh đó, việc thể chế hoá các chủ
        
        
          trương của Đảng thành chính sách, pháp luật của
        
        
          Nhà nước về lĩnh vực sự nghiệp công còn chậm,
        
        
          chưa đầy đủ, đồng bộ và phù hợp với tình hình
        
        
          thực tế đặt ra.
        
        
          
            Đẩy mạnh đổi mới toàn diện,
          
        
        
          
            tái cơ cấu các đơn vị sự nghiệp công lập
          
        
        
          Xuất phát từ những vấn đề trên, ngày
        
        
          25/10/2017, Ban Chấp hành Trung ương đã ban
        
        
          hành Nghị quyết 19-NQ/TW về tiếp tục đổi mới
        
        
          hệ thống tổ chức và quản lý, nâng cao chất lượng
        
        
          và hiệu quả hoạt động của các ĐVSNCL. Nghị
        
        
          quyết 19-NQ/TW cũng đề ra mục tiêu tổng quát là
        
        
          “Đổi mới căn bản, toàn diện và đồng bộ hệ thống
        
        
          các ĐVSNCL, bảo đảm tinh gọn, có cơ cấu hợp lý,
        
        
          có năng lực tự chủ, quản trị tiên tiến, hoạt động
        
        
          hiệu lực, hiệu quả; giữ vai trò chủ đạo, then chốt
        
        
          trong thị trường dịch vụ sự nghiệp công; cung
        
        
          ứng dịch vụ sự nghiệp công cơ bản, thiết yếu có
        
        
          chất lượng ngày càng cao. Giảm mạnh tỷ trọng,
        
        
          nâng cao hiệu quả chi ngân sách nhà nước cho
        
        
          ĐVSNCL để cơ cấu lại ngân sách nhà nước, cải
        
        
          cách tiền lương và nâng cao thu nhập cho cán bộ,
        
        
          viên chức trong ĐVSNCL…”.
        
        
          Để thực hiện mục tiêu tổng quát, Nghị quyết
        
        
          19-NQ/TW đã đưa ra các mục tiêu cụ thể theo 03
        
        
          giai đoạn: giai đoạn đến 2021; giai đoạn đến 2025;
        
        
          và giai đoạn đến 2030. Trong đó, tập trung vào việc:
        
        
          i) Hoàn thành việc thể chế hoá các chủ trương của
        
        
          Đảng về đổi mới cơ chế quản lý, cơ chế tài chính
        
        
          và tổ chức lại hệ thống ĐVSNCL; ii) Giảm đầu
        
        
          mối ĐVSNCL; iii) Giảm biên chế sự nghiệp hưởng