88
TÀI CHÍNH GIÁO DỤC
tâm trên thực tiễn… qua đó, đã tạo được sự đồng
thuận, khơi dậy lòng tự tin, tự hào, tự trọng của đội
ngũ giảng viên để họ khát khao cống hiến.
Tuy nhiên, theo số liệu của Bộ Giáo dục và Đào
tạo công bố, tính đến cuối tháng 12/2017, trong hơn
200 trường đại học được công bố về giảng viên cơ
hữu thiếu chuẩn, hầu hết các trường đều tồn tại
giảng viên không đủ chuẩn trình độ (theo quy định
là từ thạc sỹ trở lên, trừ một số ngành đặc thù).
Thống kê cho thấy, các năm học từ năm 2016 đến
năm 2018, số lượng giảng viên trong các cơ sở giáo
dục đại học là 72.792 người, tăng 3.201 người so với
năm 2015-2016. Trong đó, số lượng giảng viên có
trình độ tiến sĩ là 16.514 người (chiếm 22,7%). Tỷ lệ
này còn chưa đạt mục tiêu đặt ra tại Nghị quyết số
14/2015/NQ-CP của Chính phủ về đổi mới cơ bản
và toàn diện giáo dục đại học Việt Nam giai đoạn
2006 - 2020 (mục tiêu đến năm 2020, tỷ lệ giảng viên
có trình độ tiến sĩ ít nhất đạt 35%).
Bộ Giáo dục và Đào tạo đánh giá, tỷ lệ giảng
viên có chức danh GS, PGS và trình độ tiến sỹ
trong toàn hệ thống vẫn ở mức thấp, đặc biệt là tỷ
lệ giảng viên có trình độ tiến sỹ của các trường cao
đẳng sư phạm (chiếm khoảng 3,4%). Bên cạnh đó,
chất lượng đội ngũ giảng viên vẫn còn là dấu hỏi
lớn khi nhiều người không có đề tài nghiên cứu,
chưa có bài báo đăng trên tạp chí khoa học trong
nước và nước ngoài, trình độ ngoại ngữ còn hạn
chế... Số lượng giảng viên cơ hữu của các trường
ngoài công lập vẫn còn thiếu (15.158 người chiếm
khoảng 20% tổng số giảng viên trong toàn quốc) và
đã ở độ tuổi cao...
Cùng với hoạt động giảng dạy, hoạt động nghiên
cứu khoa học được coi là một trong 2 nhiệm vụ
quan trọng nhất của cán bộ giảng viên. Tuy nhiên,
số lượng giảng viên nghiên cứu khoa học đến nay
chưa nhiều. Thực tiễn cho thấy, hiện nay ngoài các
trường có phong trào nghiên cứu khoa học sôi nổi,
giảng viên tích cực tham gia vẫn còn tồn tại tâm lý
e ngại thiếu tự tin trong triển khai các hoạt động
khoa học công nghệ, còn nhiều giảng viên còn thiếu
nhiệt huyết, tâm huyết trong nghiên cứu khoa học,
nhiều người còn tâm lý thực hiện hoạt động theo
nghĩa vụ phải hoàn thành, chưa thực sự nhận thức
được vai trò và lợi ích của hoạt động nghiên cứu
khoa học. Bên cạnh đó, ở các trường đại học giảng
viên có độ tuổi còn trẻ, bắt đầu tham gia các hoạt
động nghiên cứu khoa học, học tập nâng cao trình
độ ở các bậc học thạc sỹ, tiến sỹ, do đó, đa số trong
số họ còn thiếu kinh nghiệm trong nghiên cứu khoa
học. Mặt khác, nhiều cán bộ, giáo viên còn có hạn
chế trong các kỹ năng nghiên cứu khoa học như lựa
chọn các phương pháp nghiên cứu, cách thức triển
khai nghiên cứu, phương pháp phân tích số liệu
thống kê, tổng hợp báo cáo, bài viết…
Nhiều giảng viên đều có tâm lý tham gia cho
nghĩa vụ, chưa thấy được thực sự những lợi ích có
được từ nghiên cứu khoa học, như việc nghiên cứu
khoa học còn phục vụ cho hoạt động giảng dạy,
nâng cao chất lượng giảng dạy, đảm bảo tính toàn
diện trong công việc của giảng viên.
Động lực để phát huy vai trò đội ngũ giảng viên
trong giáo dục, đào tạo là hệ thống các yếu tố thúc
đẩy người giảng viên tích cực tự học, tự nghiên cứu,
nâng cao trình độ mọi mặt, nhất là trình độ giảng
dạy và nghiên cứu khoa học theo nhiệm vụ được
phân công. Thế nhưng, động lực làm việc của giảng
viên còn có những vấn đề cần giải quyết, đó là:
Thứ nhất,
thu nhập của đội ngũ giảng viên thấp,
nhưng áp lực của yêu cầu về giảng dạy và nghiên cứu
khoahọcngàymột cao. Thông tưsố47/2014/TT-BGDĐT
của Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định chế độ làm việc
như sau: “Tổng quỹ thời gian làm việc của giảng viên
trong một năm học để thực hiện nhiệm vụ giảng dạy,
nghiên cứu khoa học, học tập bồi dưỡng và các nhiệm
vụ khác trong nhà trường là 1.760 giờ sau khi trừ số
ngày nghỉ theo quy định”.
Căn cứ quy định cụ thể về việc thực hiện chế độ
tuần làm việc 40 giờ để quy ra tổng quỹ thời gian
làm việc của giảng viên trong một năm học là 1.760
giờ (giờ hành chính). Trong một năm học, mỗi giảng
viên đều phải thực hiện nhiệm vụ: giảng dạy (270
giờ chuẩn, trong đó, giờ chuẩn trực tiếp trên lớp
chiếm tối thiểu 50% định mức quy định), nghiên
cứu khoa học (ít nhất 1/3 tổng quỹ thời gian làm việc
trong năm học), học tập bồi dưỡng và các nhiệm vụ
khác trong nhà trường với tổng quỹ thời gian làm
việc trong một năm học là 1.760 giờ. Quy định này
khiến giảng viên không còn thời gian để làm nghiên
cứu khác. Ngoài ra, việc nâng hạng, nâng bậc lương
còn dẫn đến hiện tượng cào bằng. Các cơ sở giáo
dục không thể thực hiện chế độ khuyến khích, thu
hút người có tài, có trình độ cao đến làm việc nếu
Các năm học t năm 2016 đến năm 2018, số
lượng giảng viên trong các cơ sở giáo dục đại
học là 72.792 người, tăng 3.201 người so với
năm 2015-2016. Trong đó, số lượng giảng
viên có trình độ tiến sĩ là 16.514 người (chiếm
22,7%). Tỷ lệ này còn chưa đạt mục tiêu đặt ra
tại Nghị quyết số 14/2015/NQ-CP của Chính
phủ về đổi mới cơ bản và toàn diện giáo dục
đại học Việt Nam giai đoạn 2006 - 2020.