Page 11 - [Thang 3-2023] Ky 2 IN
P. 11
KINH TẾ VĨ MÔ
khích sản xuất và sử dụng các loại xe tiêu hao ít vực công nghệ, các dự án khai thác, sản xuất NLTT,
năng lượng. cùng với các ưu đãi về miễn thuế nhập khẩu đối với
- Pháp luật về thuế TNDN hiện hành quy định máy móc thiết bị, vật tư, nguyên liệu... nhập khẩu
ưu đãi thuế suất 10% cho suốt đời dự án đối với các trong nước chưa sản xuất được đã góp phần quan
doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực môi trường; trọng trong việc thu hút các nhà đầu tư tham gia đầu
miễn thuế tối đa không quá 4 năm và giảm 50% số tư vào nguồn năng lượng mới này. Trong thời gian
thuế phải nộp tối đa không quá 9 năm tiếp theo đối qua, các chính sách trên đã thu được một số kết quả
với các doanh nghiệp thành lập mới hoạt động trong ban đầu. Theo đó, Việt Nam cũng đã xây dựng các
lĩnh vực môi trường. Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhà máy sản xuất pin năng lượng mặt trời hiện đại;
nhập khẩu số 107/2016/QH13 cũng có quy định về Đáp ứng tiềm năng sẵn có và nhu cầu sử dụng năng
miễn thuế nhập khẩu máy móc, thiết bị, phương lượng mặt trời ở Việt Nam hiện nay. Trong đó, một
tiện, dụng cụ, vật liệu sử dụng trực tiếp trong việc số nhà máy đi đầu trong ngành công nghệ sản xuất
thu gom, lưu giữ, vận chuyển, tái chế, xử lý chất pin mặt trời có thể kể đến như: Dự án HT Solar tại
thải; sản xuất năng lượng sạch, năng lượng tái tạo. Khu công nghiệp Tràng Duệ, An Dương, Hải Phòng
Có thể thấy, quá trình “xanh hóa” hệ thống chính được cấp phép đầu tư tháng 7/2016 với tổng số vốn
sách thuế của Việt Nam giai đoạn vừa qua đã góp đầu tư lên đến 22 triệu USD; dự án Vina Solar ở Lào
phần hình thành các khung khổ khá đồng bộ, phát Cai, thành lập đầu năm 2018 có số vốn đầu tư lên tới
huy được vai trò của từng chính sách thuế, phí trong 1 tỷ USD và diện tích xây dựng là 228 ha; dự án
việc thực hiện các mục tiêu liên quan đến kinh tế xanh. Trina Solar ở Bắc Giang được thành lập từ 2017 với
tổng số vốn đầu tư lên tới 100 triệu USD, diện tích
Kết quả thực hiện chính sách thuế xanh mặt xưởng là 42.000 m2, sản xuất loại pin đơn tinh
nhằm phát triển bền vững ở Việt Nam
thể và đa tinh thể.
Chính sách thuế xanh liên quan đến BVMT Ngoài ra, một số khu công nghiệp sinh thái sử
hướng tới phát triển bền vững (PTBV) đã được ban dụng các công nghệ mới, các sản phẩm sinh học tự
hành, bao quát cả 3 khía cạnh cơ bản: (i) Thực hiện phân hủy… đang hình thành. Tại một số tỉnh thành
nguyên tắc “người gây ô nhiễm phải trả tiền”; (ii) hiện nay đang thí điểm chuyển đổi một số khu công
Tạo động lực để thúc đẩy sản xuất xanh và tiêu nghiệp sang khu công nghiệp sinh thái, như Hải
dùng xanh (qua các chính sách ưu đãi về thuế); (iii) Phòng có 02 khu công nghiệp phát triển theo hướng
Hỗ trợ, khuyến khích các tổ chức, cá nhân, doanh này là Khu công nghiệp DEEP C (540 ha) và Khu
nghiệp tham gia vào các dự án BVMT sinh thái, sản công nghiệp Nam Cầu Kiền (gần 270 ha). Đồng thời,
xuất năng lượng sạch, năng lượng tái tạo. Các chính Việt Nam cũng đã xây dựng các nhà máy sản xuất
sách phí liên quan đến BVMT cũng đã được thay đổi pin năng lượng mặt trời hiện đại, đáp ứng tiềm năng
theo hướng thị trường, buộc các tổ chức, cá nhân sẵn có và nhu cầu sử dụng năng lượng mặt trời
phát sinh chất thải trong quá trình sản xuất, tiêu hiện nay.
dùng có trách nhiệm nộp phí, giá dịch vụ cho hoạt Một số vấn đề đặt ra
động thu gom, vận chuyển, xử lý chất thải; đảm bảo
nguyên tắc “người sử dụng phải trả tiền”. Mặc dù, đạt được một số kết quả tích cực nói trên
Các chính sách ưu đãi về thuế đã được hoàn nhưng thực tiễn triển khai áp dụng chính sách thuế,
thiện, bổ sung theo hướng khuyến khích phát triển phí liên quan đến tăng trưởng xanh ở Việt Nam
ứng dụng công nghệ mới, tiết kiệm năng lượng, sử cũng đang bộc lộ một số hạn chế. Hệ thống công cụ
dụng năng lượng sạch và các sản phẩm thân thiện kinh tế nói chung, chính sách thuế nói riêng cho mục
môi trường. Cùng với các chính sách khác, chính tiêu BVMT còn thiếu đồng bộ, chưa đủ mạnh để
sách thu ngân sách nhà nước (NSNN) đã góp phần điều tiết hiệu quả hành vi của các chủ thể trong nền
vào sự tăng trưởng nhanh chóng của năng lượng tái kinh tế để hướng đến sản xuất xanh và tiêu dùng
tạo (NLTT) tại Việt Nam trong thời gian qua. Tính xanh. Mức thu của một số loại hàng hóa gây ô nhiểm
đến cuối năm 2021, các nguồn NLTT có tổng công môi trường còn thấp, thậm chí là không đáng kể.
suất lắp đặt là 20.670 MW, chiếm 27% tổng công suất Cùng với đó, các chính sách ưu đãi, khuyến khích
lắp đặt toàn hệ thống (76.620 MW); tổng sản lượng các tổ chức, cá nhân tham gia vào các hoạt động
điện từ nguồn NLTT đạt 31.508 tỷ kWh, chiếm giảm thiểu ô nhiễm, giảm phát thải khí nhà kính còn
12,27% tổng sản lượng toàn hệ thống (Lê Khánh chưa được cụ thể hóa, chưa đủ sức hấp dẫn. Cụ thể:
Lâm, 2022). - Về thuế BVMT: Nhiều sản phẩm, hàng hoá mà
Các chính sách ưu đãi về thuế TNDN đối với lĩnh việc sử dụng có khả năng gây ô nhiễm môi trường
10