Tạp chí Tài chính kỳ 2 số tháng 10-2015 - page 9

TÀI CHÍNH -
Tháng 10/2015
11
Nhận diện ngân hàng đầu tư ở Việt Nam
Khái niệm “ngân hàng đầu tư” là một thuật ngữ
mới đối với hệ thống tài chính và pháp luật Việt
Nam. Hiện nay, chưa có văn bản pháp lý nào của
Việt Nam quy định cụ thể cũng như đưa ra khái niệm
ngân hàng đầu tư hay hoạt động ngân hàng đầu tư.
Tuy nhiên, cũng như cách tiếp cận của các nhà lập
pháp các nước phát triển, hệ thống pháp luật của Việt
Nam đã đưa ra quy định cụ thể đối với từng nghiệp
vụ thuộc phạm trù hoạt động ngân hàng đầu tư.
Ngân hàng đầu tư thực chất là một loại hình
công ty chứng khoán (CTCK) nhưng ở mức độ
phát triển cao hơn ngân hàng đầu tư được kinh
doanh đa dạng các sản phẩm, dịch vụ tài chính
phức tạp với nhiều đối tượng khách hàng khác
nhau. Hoạt động ngân hàng đầu tư từ khi được
hình thành đến nay được thực hiện dưới nhiều
hình thức như CTCK, công ty quản lý quỹ, ngân
hàng thương mại (NHTM),…
Rõ ràng về bản chất, ngân hàng đầu tư không
phải là tổ chức tín dụng thuần túy như các NHTM
nên Luật Các tổ chức tín dụng không đề cập khái
niệm này, thay vào đó Luật này cho phép các tổ
chức tín dụng được phép thực hiện một số nghiệp
vụ chứng khoán thông qua công ty con, công ty
liên kết. Trước khi Luật Các tổ chức tín dụng có
hiệu lực từ 01/01/2011, các NHTM vẫn được phép
thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh phát hành chứng
khoán sau khi đăng ký với Ngân hàng Nhà nước
và được sự chấp thuận của Ủy ban Chứng khoán
Nhà nước (UBCKNN). Tuy nhiên, một trong các
thay đổi trọng yếu đến hoạt động ngân hàng đầu
tư là việc các NHTM chỉ được phép kinh doanh
các hoạt động ngân hàng đầu tư thông qua công ty
con, công ty liên kết. Theo đó, Luật mới quy định
mô hình NHTM ở Việt Nam là mô hình “NHTM đa
năng hạn chế”, nghĩa là các NHTM được thực hiện
các hoạt động ngân hàng truyền thống (như nhận
tiền gửi, cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ
thanh toán), và tùy theo mức độ rủi ro thị trường
của từng nghiệp vụ ngân hàng đầu tư, các NHTM
được phép trực tiếp hoặc gián tiếp thực hiện các
nghiệp vụ của ngân hàng đầu tư.
Đối với Luật Chứng khoán, khái niệm “hoạt
động ngân hàng đầu tư” không được nêu chi tiết
mà được định nghĩa đối với từng loại hình hoạt
động riêng lẻ tại Luật Chứng khoán. Do đó, mặc
dù không nêu rõ “hoạt động ngân hàng đầu tư” là
gì nhưng Luật Chứng khoán đã đưa ra khung pháp
lý cần thiết cho từng hoạt động được công nhận là
thuộc phạm trù ngân hàng đầu tư như tự doanh
chứng khoán, bảo lãnh phát hành, tư vấn, M&A,
IPO... Luật Chứng khoán được ban hành năm 2006
và sửa đổi năm 2010 của Việt Nam đã đưa ra một
khuôn khổ pháp lý cơ bản cho hoạt động chứng
khoán nói chung và các hoạt động ngân hàng đầu
tư nói riêng, loại bỏ những mâu thuẫn, xung đột
với các văn bản pháp luật khác có liên quan nhằm
hoàn thiện mô hình hoạt động của thị trường và
thúc đẩy thị trường chứng khoán phát triển.
Như vậy, hiện nay cơ sở pháp lý nước ta chưa
có quy định cụ thể về hoạt động ngân hàng đầu tư
và mô hình tổ chức các hoạt động này. Tuy nhiên,
Luật Chứng khoán 2006 và Luật Chứng khoán sửa
đổi 2010 đã cho phép các CTCK và công ty quản lý
quỹ được phép thực hiện một số nghiệp vụ ngân
hàng đầu tư. Ngoài ra, Luật Các tổ chức tín dụng
2010 đưa ra hạn chế về việc thực hiện một số hoạt
động ngân hàng đầu tư của các tổ chức tín dụng,
qua đó các NHTM chỉ được phép thực hiện một
số hoạt động ngân hàng đầu tư thông qua công ty
con, công ty liên kết.
XÂY DỰNG KHUÔNKHỔPHÁP LÝ CHONGÂNHÀNGĐẦUTƯ
ThS. NGUYỄN KHÁNH TOÀN
Hiện nay, cơ sở pháp lý của Việt Namchưa có quy định cụ thể về hoạt động ngân hàng đầu tư
vàmô hình tổ chức các hoạt động này. Để đáp ứng nhu cầu của nhà đầu tư và sự hội nhập quốc
tế ngày càng sâu rộng của nền kinh tế, các công ty chứng khoán tất yếu phải chuyển dần sang
mô hình ngân hàng đầu tư để có thể cạnh tranh được với các định chế tài chính trung gian
nước ngoài và có điều kiện phát triển theo kịp quymô của thị trường chứng khoán.
1,2,3,4,5,6,7,8 10,11,12,13,14,15,16,17,18,19,...62
Powered by FlippingBook