Tạp chí Tài chính kỳ 2 số tháng3-2016 - page 9

TÀI CHÍNH -
Tháng 3/2016
11
khoản vay mới. Nợ công chỉ sử dụng cho đầu tư
phát triển, xây dựng các công trình hạ tầng kinh tế
xã hội quan trọng, thiết yếu theo quy hoạch. Cần có
chế tài tăng cường sự phối hợp chặt chẽ giữa chính
sách tài khóa, đầu tư công và quản lý nợ công; từng
bước giảm tỷ lệ vốn đầu tư của nhà nước, tăng xã
hội hóa. Việc vay nợ phải tuân thủ chương trình
quản lý nợ trung hạn, gắn kết chặt chẽ với kế hoạch
phát triển kinh tế-xã hội, kế hoạch tài chính và đầu
tư công trung hạn 5 năm đã được phê duyệt. Đồng
thời, quản lý chặt chẽ các khoản vay có bảo lãnh của
Chính phủ theo hướng siết chặt điều kiện cấp bảo
lãnh, không mở rộng diện, chọn lọc có mục tiêu ưu
tiên, tiến tới thu hẹp bảo lãnh Chính phủ và kiểm
soát việc bảo đảm trả nợ đối với các khoản vay được
Chính phủ bảo lãnh.
Thứ ba,
tăng cường kiểm tra, giám sát việc
sử dụng vốn vay, bảo đảm hiệu quả đầu tư, chất
lượng công trình và theo đúng quy định của pháp
luật. Tăng cường việc đôn đốc các bộ, ngành, địa
phương, chủ đầu tư đẩy nhanh tiến độ thi công
công trình, sớm hoàn thành đưa vào sử dụng, rút
ngắn thời gian hoàn vốn, giảm thiểu chi phí vay góp
phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Chủ động
ngăn ngừa và xử lý nghiêm các hành vi tiêu cực,
tham nhũng, lãng phí.
Thứ tư,
tập trung tháo gỡ khó khăn cho sản xuất
– kinh doanh, thúc đẩy kinh tế phát triển ở mức cao
hơn giai đoạn 2011 – 2015, tạo điều kiện tăng thu
NSNN, giảm áp lực chi NSNN về an sinh xã hội.
Thứ năm,
giai đoạn tới, chính sách thu, đặc biệt
là thu nội địa tiếp tục sửa đổi, bổ sung nhằm đảm
bảo huy động mức phù hợp với sự phát triển của
đất nước, tạo điều kiện cải thiện môi trường kinh
doanh, đồng thời giảm thiểu tác động giảm thu do
cắt giảm thuế quan để hội nhập quốc tế và giảm thu
từ dầu thô.
Thứ sáu,
giảm áp lực chi NSNN, việc cơ cấu
lại NSNN cũng sẽ được tiếp tục triển khai, phấn
đấu đến năm 2020 tỷ trọng chi thường xuyên giảm
xuống khoảng 58% (giảm khoảng 9 -10% so với tỷ
trọng bố trí dự toán năm 2015), tăng tỷ trọng chi
đầu tư phát triển chiếm trong tổng chi NSNN đạt
khoảng 19 – 20%. Đặc biệt, thúc đẩy mạnh mẽ các
hình thức đầu tư ngoài NSNN để tăng nguồn lực
đầu tư toàn xã hội; tăng chi trả nợ, giảm số vay đảo
nợ; triệt để tiết kiệm chi thường xuyên, thực hiện
nghiêm chủ trương tinh giản biên chế; thúc đẩy cải
cách mạnh mẽ khu vực sự nghiệp công kết hợp xã
hội hóa, cổ phần hóa một số đơn vị sự nghiệp công
có điều kiện nhằm nâng cao hiệu quả chi, giảm áp
lực bố trí chi từ NSNN.
63% quy mô thị trường trái phiếu Việt Nam (trong
khi quy mô thị trường trái phiếu chính phủ của các
nước trong khu vực vào khoảng 40% -70% GDP),
nên khó có thể tiếp tục tăng quy mô huy động vốn
trong nước trong các năm tới.
Bên cạnh đó, chi phí vay nước ngoài có xu hướng
tăng lên, điều kiện vay từ các đối tác phát triển sẽ
giảm dần tính ưu đãi. Cùng với đó, Ngân hàng Thế
giới sẽ áp dụng điều khoản trả nợ nhanh với các
khoản nợ Chính phủ. Điều này phần nào gây ảnh
hưởng tới nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ.
Mặt khác, hệ thống các công cụ quản lý và kiểm
soát tình trạng nợ công còn thiếu, chưa hình thành
các cơ chế và các công cụ để giảm thiểu rủi ro, cũng
như chủ động điều chỉnh cơ cấu (kỳ hạn, lãi suất,
đồng tiền…) của nợ công trong quá trình hoạt động;
Hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về nợ công
chưa cao, chế tài xử lý chưa nghiêm, vẫn còn tình
trạng các chủ dự án, các bộ, ngành, địa phương
chưa chấp hành đầy đủ các quy định về đầu tư xây
dựng cơ bản, chi tiêu nguồn vốn từ NSNN và yêu
cầu quản lý nợ công; Công tác quản lý nợ công còn
thiếu sự phối hợp đồng bộ giữa các bộ, ngành và địa
phương, gây khó khăn cho việc thống nhất quản lý
nợ công, chủ động trả nợ, giám sát và kiểm soát rủi
ro các chỉ tiêu an toàn nợ công theo quy định của
pháp luật.
Giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nợ công
Để nâng cao hiệu quả quản lý, đảm bảo tính an
toàn, bền vững của nợ công cần tập trung tái cơ cấu
các khoản nợ công, quản lý chặt chẽ các khoản vay
mới; đồng thời, tháo gỡ khó khăn cho sản xuất –
kinh doanh, tạo điều kiện tăng thu NSNN... Cùng
với các giải pháp được cơ quan quản lý nhà nước
đề ra, chúng tôi cho rằng cần quan tâm các giải
pháp sau:
Thứ nhất,
thực hiện tổ chức tổng kết, đánh giá
lại Chiến lược nợ công đến năm 2020, tầm nhìn đến
năm 2030 cũng như Luật Quản lý nợ công, trên cơ
sở đó kiến nghị với Quốc hội cho sửa đổi, bổ sung
trong thời gian tới; đẩy mạnh huy động các khoản
vay trung, dài hạn, triển khai có hiệu quả các nghiệp
vụ quản lý và xử lý rủi ro đối với danh mục nợ công.
Thứ hai,
quản lý chặt chẽ nợ công, nhất là các
Nợ công chỉ sử dụng cho đầu tư phát triển, xây
dựng các công trình hạ tầng kinh tế xã hội quan
trọng, thiết yếu theo quy hoạch. Cần có chế tài
tăng cường sự phối hợp chặt chẽ giữa chính
sách tài khóa, đầu tư công và quản lý nợ công.
1,2,3,4,5,6,7,8 10,11,12,13,14,15,16,17,18,19,...102
Powered by FlippingBook