58
DIỄN ĐÀN KHOA HỌC
Thứ năm, khả năng sinh lời
Giai đoạn 2010-2015, lợi nhuận bình quân hằng
năm của Agribank tăng 2,36%. Trong giai đoạn
2009-2014, lợi nhuận sau thuế của Agribank có sự
biến động khá lớn. Nếu như năm 2010 lợi nhuận
sau thuế đạt 1,300,237 triệu đồng thì đến năm
2014 đạt 2,454,210 triệu đồng.
Trong vòng 5 năm (từ 2009-2014), thì năm
2012 lợi nhuận trong toàn Ngành nói chung và
Agribank nói riêng có giảm do đây là giai đoạn
tăng trưởng tín dụng khá thấp, lãi suất cho vay hạ
và NHNN thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ để
kiềm chế lạm phát.
Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng
tại Agribank hiện nay
Nhằm nâng cao chất lượng tín dụng, giảm
tối đa nợ xấu, đảm bảo an toàn hoạt động của
Agribank nói riêng và hệ thống NHTM nói chung,
thời gian tới cần chú trọng triển khai đồng bộ một
số nhóm giải pháp dưới đây:
Một là,
nhóm giải pháp về hoàn thiện chính
sách tín dụng và nâng cao chất lượng công tác
thu thập, xử lý thông tin trong quản lý chất lượng
tín dụng.
- Hoàn thiện quy trình tín dụng:
Agribank cần rà soát lại toàn bộ quy trình tín
dụng hiện hành phát hiện những sơ hở, hoặc
những quy định không còn phù hợp. Công việc
này cần phải tiến hành từ cơ sở, để cơ sở đề suất,
trên cơ sở đó tổng hợp và dự thảo, cần hội thảo
các khu vực, vùng miền khác nhau. Trong thực
hiện quy trình tín dụng cần tuân thủ đúng quy
trình, việc xét duyệt cho vay phải đảm bảo khả
năng thu hồi vốn.
- Hoàn thiện chính sách tín dụng:
Đảm bảo thực hiện đúng các quy định liên
quan đến chỉ đạo hoạt động tín dụng của NHNN
trên cơ sở đặc thù của Agribank; Chính sách tín
dụng cần mang tính dài hạn đón đầu được những
thay đổi về tình hình kinh tế - tài chính;
Đồng thời, đưa ra được các công cụ để lượng
hóa rủi ro cũng như cảnh báo rủi ro cụ thể nhằm
giúp cán bộ tín dụng có thể nhận diện sớm rủi ro
tỷ đồng, chiếm 73,46%/tổng nợ xấu của toàn hệ
thống. Trong đó, nợ xấu các chi nhánh khu vực
TP. Hồ Chí Minh là 9.335 tỷ đồng, chiếm 37,37%/
tổng nợ xấu toàn hệ thống. Nợ xấu các chi nhánh
ở Hà Nội là 8.517 tỷ đồng, chiếm 34,1%/tổng nợ
xấu toàn hệ thống. Tuy nhiên theo dự báo, những
con số trên có xu hướng giảm dần trong năm 2015
và trong thời gian sắp tới.
Thứ ba, tỷ lệ trích lập dự phòng rủi ro
Từ đầu năm 2012, Agribank Việt Nam đã ban
hành Quyết định 469/QĐ-HĐTV-XLRR ngày
30/3/2012 về việc thực hiện phân loại nợ và trích
lập dự phòng rủi ro tín dụng dựa trên Quyết định
493/2005/QĐ-NHNN và Quyết định 18/2007/
QĐ-NHNN của Ngân hàng Nhà nước (NHNN)
Việt Nam, cũng như phù hợp với thực tiễn giai
đoạn hiện nay phù hợp với diễn biến nợ xấu trong
những năm gần đây. Nhờ đó, hoạt động trích lập
và xử lí dự phòng rủi ro của ngân hàng Agribank
đã đạt được các kết quả tích cực (xem bảng).
Ngân hàng Agribank có quy mô trích lập dự
phòng rủi ro tăng trong giai đoạn 2009-2011.
Trong năm 2011 trích lập dự phòng rủi ro tăng
37,9% so với 2011 và tăng 61,27% so với năm 2010.
Giai đoạn 2012-2014, tỷ lệ trích lập dự phòng
rủi ro có chiều hướng giảm ngược lại, trong năm
2013 trích lập dự phòng rủi ro là 9.096 tỷ đồng và
năm 2014 là 8.967 tỷ đồng.
Trong 5 năm qua, mỗi năm Agribank cũng thu
nợ ngoại bảng được từ 2.000 đến 4.000 tỷ đồng,
nhờ đó đã bù đắp được phần nào cho số tiền sử
dụng để trích lập dự phòng rủi ro và cải thiện
được hiệu quả kinh doanh của ngân hàng trong
giai đoạn này.
Thứ tư, hệ số an toàn vốn
Nhờ có sự tăng trưởng vốn tự có trong những
năm qua mà hệ số an toàn vốn tối thiểu của
Agribank tăng nhanh và đáp ứng được quy định
của NHNN. Theo Thông tư số 13/2010/TT-NHNN
ngày 12/09/2010, thì hệ số an toàn vốn tối thiểu của
ngân hàng thương mại (NHTM) phải đạt trên 9%.
Hệ số an toàn vốn của Agribank năm 2009 là 8,01%;
năm 2010 là 8,03% đến năm 2014 đạt 13,45% và dự
báo có xu hướng tiếp tục tăng trong thời gian tới.
BẢNG: TRÍCH LẬP VÀ XỬ LÝ DỰ PHÒNG RỦI RO CỦA AGRIBANK VIỆT NAM (TỶ ĐỒNG)
Chỉ tiêu
2009
2010
2011
2012
2013
2014
Số đã trích lập dự phòng rủi ro
4.055
6.500
10.471
9.824
9.096
8.967
Xử lý rủi ro
4.110
2.295
2.559
5.929
7.822
8.020
Thu nợ sau khi xử lý rủi ro
4.012
2.835
2.066
2.229
2.876
3.014
Nguồn: Tác giả tính toán