Tạp chí Tài chính kỳ 1 số tháng 10 - page 53

TÀI CHÍNH -
Tháng 10/2015
55
trong khi lại thiếu các tàu có trọng tải lớn chạy tuyến
quốc tế và các tàu chuyên dụng nên hiệu quả khai
thác vẫn ở mức thấp và cước vận tải thấp, đồng thời
bị hạn chế bởi rào cản kỹ thuật của các nước lớn, nên
chấp nhận ký các hợp đồng vận chuyển tuyến ngắn,
hàng hóa thô, giá trị vận tải thấp.
Thứ năm, tiêu chí năng lực cảng biển chuyên
dùng (CPI):
Năng lực cảng chuyên dụng Việt Nam yếu kém
trong khả năng cạnh tranh với nước ngoài về năng
suất bốc xếp và công suất cảng chuyên dụng, quản
lý và khai thác hệ thống cảng biển Việt Nam hiện
còn nhiều bất cập và không hiệu quả, tình trạng của
việc khai thác công suất cảng biển bất bình thường,
nơi quá tải, chỗ dư thừa. Hạ tầng bến cảng Việt
Nam yếu kém, chưa đồng bộ với đầu tư cảng, chưa
đáp ứng nhu cầu cho tàu chuyên dụng trọng tải
lớn. Đầu tư phát triển cảng biển ở Việt Nam thiếu
hiệu quả, không theo xu hướng chung quốc tế. Bên
cạnh đó, về phương tiện và thiết bị xếp dỡ, một
số phương thức đã và đang được đầu tư đổi mới,
song tồn tại một số vấn đề ảnh hưởng đến tính kết
nối của các phương thức vận tải như: Tại các khu
vực đầu mối tại (ga đường sắt, cảng thủy nội địa,
cảng biển) thiết bị xếp dỡ chưa được chú trọng đầu
tư dẫn đến năng lực xếp dỡ chưa được nâng cao,
phương tiện chuyên chở chuyên dụng dành cho
những mặt hàng đặc biệt (toa xe container) còn ít
khiến cho năng lực vận chuyển bị giảm.
Thứ sáu, tiêu chí tỷ lệ thuyền viên xuất khẩu
(SSI):
Theo Cục Hàng hải Việt Nam, trong giai đoạn
2008-2014, số lượng thuyền viên Việt Nam được
đào tạo đạt tiêu chuẩn quốc tế theo Công ước
STCW 78 sửa đổi 2010 đã tăng đáng kể, cả về số
lượng và chất lượng. Năm 2014 có 45.141 thuyền
viên với 3.827 thuyền trưởng, 3.272 máy trưởng,
1.593 đại phó, 1.136 máy hai, 4.797 sỹ quan boong
và 4.689 sỹ quan máy các hạng. Tuy nhiên, Việt
Nam khó cạnh tranh được với các nước ASEAN về
thuyền viên do năng lực làm việc yếu, thiếu kinh
nghiệm thực tế, khả năng giao tiếp ngoại ngữ kém,
tính kỷ luật và chuyên nghiệp chưa cao, sức khỏe
chưa đạt và thiếu hiểu biết về pháp luật hàng hải
quốc tế, thủ tục ký kết hợp đồng lao động xuất
khẩu rất phức tạp và mất thời gian... nên thu nhập
của thuyền viên Việt Nam thấp thua nhiều so với
thuyền viên nước khác.
Giải pháp nâng cao vị thế cạnh tranh vận tải
biển Việt Nam
Để nâng cao năng lực ngành vận tải biển Việt
thế giới. Điều đó dẫn tới tình trạng đội tàu Việt
Nam dư thừa tàu có trọng tải nhỏ, tàu hàng khô
hàng rời, trong khi lại thiếu các loại tàu chuyên
dụng như: Tàu chở khí lỏng, ga hóa lỏng, tàu hóa
chất, xi măng tời, tàu container và tàu có trọng tải
lớn chạy tuyến quốc tế.
Xu hướng phát triển đội tàu:
Trong khi vận tải thế
giới phát triển mạnh container thì Việt Nam chủ
yếu lại phát triển tàu hàng khô. Tốc độ tăng tưởng
tàu container chung của thế giới trong những năm
gần đây khoảng 7,7%, đội tàu Việt Nam mới chỉ
tăng khoảng hơn 1%, thị phần đội tàu container
của thế giới chiếm khoảng 12,8% tổng đội tàu, đội
tàu Việt Nam chỉ chiếm khoảng 3,3%. Như vậy, tỷ
lệ tàu container của Việt Nam quá nhỏ trong cơ
cấu đội tàu Việt Nam, không phù hợp với xu thế
phát triển chung của đội tàu thế giới.
Thứ hai, về tiêu chí giá cước vận tải bình quân
(ACI):
Vận tải biển Việt Nam hiện nay chủ yếu là tuyến
ngắn, hàng hoá nguyên liệu thô có giá trị thấp,
điều kiện kỹ thuật giản đơn. Với các thị trường có
giá cước vận tải bình quân cao như Mỹ, Hàn Quốc,
Việt Nam không thể cạnh tranh được do yêu cầu
khắt khe của thị trường vận tải (chủ yếu là điều
kiện ràng buộc của hàng hoá: Điều kiện bảo hiểm,
tuyến biển dài và và rào cản kỹ thuật đội tàu).
Thứ ba, về tiêu chí thị phần vận tải (MSI):
Thị phần vận tải nội địa của đội tàu biển Việt
Nam hiện gia tăng nhanh chóng, đảm nhận gần
như toàn bộ thị phần vận chuyển hàng nội địa
bằng đường biển, chiếm trên 90% thị phần vận tải
nội địa bằng đường biển. Tuy nhiên, đối với vận
tải hàng xuất nhập khẩu và quốc tế, tỷ lệ thị phần
mới đạt 10 - 12% là quá nhỏ so với tiềm năng thực
tế. Bên cạnh đó, tỷ lệ thị phần vận tải biển hiện
nay so với các phương thức vận tải khác trong
nước mới đạt 17-19% về vận chuyển hàng hóa, vận
chuyển hành khách gần như không đáng kể, chưa
tương xứng với lợi thế so sánh và phát huy được
tiềm năng của vận tải biển.
Thứ tư, tiêu chí năng lực vận tải (CSI):
So với các đối thủ như Trung Quốc, Mỹ, Hàn
Quốc, Nhật Bản, năng lực vận tải hàng hóa của Việt
Nam kém, khả năng cạnh tranh vận tải về quy mô
yếu. Sản lượng vận tải biển của đội tàu biển Việt
Nam năm 2014 đạt 98,54 triệu tấn (tương đương
150,58 tỷ tấn.km). Trong đó, vận tải quốc tế đạt 55,13
triệu tấn (tương đương 128,03 tỷ tấn.km); vận tải nội
địa đạt 43,23 triệu tấn (tương đương 22,55 tỷ tấn.
km). Do đội tàu biển Việt Nam đang trong tình trạng
dư thừa tàu có trọng tải nhỏ, tàu chở hàng tổng hợp
1...,43,44,45,46,47,48,49,50,51,52 54,55,56,57,58
Powered by FlippingBook