TÀI CHÍNH -
Tháng 3/2018
67
vấn đề BVMT trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế
và phát triển bền vững, Việt Nam cũng đã ban hành
các văn bản pháp lý liên quan đến công tác BVMT.
Cụ thể, Quốc hội đã ban hành Luật Môi trường lần
đầu vào năm 1993, Luật Bảo vệ môi trường sửa đổi
vào năm 2005, Luật Thuế bảo vệ môi trường (Luật
số 57/2010/QH12). Chính phủ ban hành Nghị định
số 67/2011/NĐ-CP ngày 08/08/2011 quy định về đối
tượng chịu thuế, căn cứ tính thuế, khai thuế, tính
thuế, nộp thuế và hoàn thuế bảo vệ môi trường; Bộ
Tài chính ban hành Thông tư số 152/2011/TT-BTC
ngày 11/11/2011 hướng dẫn thi hành Nghị định
67/2011/NĐ-CP; Thông tư số 159/2012/TT-BTC ngày
28/09/2012, sửa đổi, bổ sung Thông tư số 152/2011/
TT-BTC… Tuy nhiên, Việt Nam hiện chưa ban hành
chế độ kế toán có liên quan đến tổ chức kế toán môi
trường trong DN. Các chế độ kế toán hiện hành
chưa có các văn bản hướng dẫn DN trong việc bóc
tách và theo dõi chi phí sản xuất kinh doanh, chưa
có các tài khoản cần thiết để hạch toán các khoản chi
phí môi trường...
Hai là,
DN chưa quan tâm đến công tác kế toán
môi trường trong hoạt động của mình. Nhận thức
về trách nhiệm xã hội của DN, tổ chức đối với
cộng đồng còn ở trình độ thấp. Hiện nay, các DN
chủ yếu chỉ quan tâm đến lợi nhuận, lợi ích ngắn
hạn chưa có tầm nhìn vĩ mô trong các hoạt động
sản xuất nhằm giữ gìn môi trường để đạt tới sự
phát triển bền vững, điều này khiến cho rất nhiều
chi phí liên quan đến môi trường đang phản ánh
chung trong các tài khoản chi phí quản lý, khiến
các nhà quản lý khó phát hiện quy mô và tính
chất của chi phí môi trường nói chung và từng
khoản chi phí môi trường nói riêng. Ngay cả trên
các tài khoản kế toán cũng chưa ghi nhận các chi
phí đáng kể liên quan đến môi trường như: Chi
phí sửa chữa, đền bù, chi phí khắc phục sự cố và
chi phí dọn dẹp, xử lý trong các vụ tai nạn, hủy
hoại môi trường sinh thái...
Ba là,
Việt Nam chưa có được các công cụ hữu
hiệu trong quản lý môi trường như: Thuế tài nguyên,
phí ô nhiễm; Các văn bản pháp lý và các tiêu chuẩn
về môi trường trong hoạt động của DN còn thiếu và
chưa đồng bộ; Các quy định về việc DN, tổ chức, cá
nhân gây ô nhiễm buộc phải chi trả theo nguyên tắc
người gây ô nhiễm phải trả chi phí nhưng việc triển
khai thực hiện không mấy dễ dàng... Bên cạnh đó,
Việt Nam cũng chưa xây dựng được một ngân hàng
dữ liệu về môi trường quốc gia (tài nguyên nước,
khoáng sản, rừng; các công nghệ xử lý chất thải; các
bộ tiêu chuẩn môi trường trong từng ngành, lĩnh
vực...) làm cơ sở cho quá trình hạch toán...
Bốn là,
công tác đào tạo về kế toán môi trường ở
nước ta vẫn còn hạn chế. Hiện nhiều cơ sở đào tạo đại
học cũng đã tổ chức xuất bản sách và giáo trình giảng
dạy về kế toán môi trường. Tuy nhiên, tại Việt Nam
hiện nay, xét về khía cạnh giáo dục và đào tạo, kế
toán môi trường được đưa vào giảng dạy một cách
sơ sài trong chương trình của ngành quản lý môi
trường. Bên cạnh đó, trong xu hướng chung của cơ
chế tự chủ tài chính do Chính phủ đề ra, các trường
sẽ tập trung đào tạo các lĩnh vực mà xã hội có nhu
cầu cao. Hiện nay, do kế toán môi trường chưa được
DN quan tâm, nên việc đào tạo môn này tại các cơ sở
giáo dục đại học vẫn còn hạn chế là điều khá dễ hiểu.
Một số giải pháp đề xuất
Trong bối cảnh Việt Nam đang đẩy mạnh chuyển
đổi mô hình tăng trưởng, hướng đến phát triển nền
kinh tế xanh, việc áp dụng kế toán môi trường vào
kế toán Việt Nam là rất cần thiết, có vai trò quan
trọng trong sự phát triển bền vững đối với các DN
nói riêng và nền kinh tế nói chung. Nhằm từng bước
đưa kế toán môi trường ngày càng phổ biến trong
hoạt động của DN, trong thời gian tới cần chú ý một
số nội dung sau:
Về phía cơ quan quản lý:
- Cần xây dựng các văn bản hướng dẫn, tiêu
chuẩn, quy định có liên quan đến môi trường và
quản lý môi trường chặt chẽ và rõ ràng hơn nhằm
tạo nền tảng cơ sở và hành lang pháp lý cho việc
phát triển hạch toán quản lý môi trường một cách rõ
ràng và cụ thể hơn. Trong đó, chú trọng đưa ra khái
niệm và tiêu thức phân loại chi phí môi trường, làm
căn cứ ghi nhận, đo lường, hạch toán và quản lý các
chi phí này. Theo nhận định của các chuyên gia kinh
tế, một hệ thống chỉ tiêu trong báo cáo môi trường
được xây dựng trên cơ sở khoa học, tuân thủ các
chuẩn mực quốc tế, tính đến điều kiện đặc thù của
các DN trong nước sẽ là công cụ hữu hiệu để quản
lý môi trường, tạo ra sân chơi bình đẳng cho các DN
thực hiện tốt hoạt động BVMT.
- Cần phối hợp với hiệp hội nghề nghiệp để ban
hành những chuẩn mực về kế toán môi trường,
quy định những thông tin môi trường trình bày
trong báo cáo cung cấp cho bên ngoài DN, nhằm
đảm bảo sự thống nhất quản lý về môi trường.
Bảng 2. Hệ thống thông tin của doanh nghiệp
trong kế toán môi trường
STT Dạng thông tin
Chi tiết
1 Thông tin tài chính
Thunhập, chi phí, tài sản, nguồn vốn...
2 Thông tin
phi tài chính
Ảnh hưởng đến môi trường,
chỉ số đo lường môi trường...
Nguồn: Tác giả tổng hợp