58
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
quay tổng tài sản và bình quân tổng tài sản chia
cho bình quân vốn cổ phần phổ thông bằng hệ số
đòn bẩy tài chính, do vậy còn có công thức tính thứ
2 như sau:
Tỷ số lợi nhuận
trên vốn
chủ sở hữu
=
Tỷ suất
lợi nhuận
biên
x
Số vòng
quay tổng
tài sản
x
Hệ số đòn
bẩy tài
chính
Mặt khác, vì tỷ suất lợi nhuận trên tài sản (ROA)
bằng tỷ suất lợi nhuận biên nhân với số vòng quay
tổng tài sản, nên có công thức sau:
ROE = ROA x Hệ số đòn bẩy tài chính
Tỷ số ROE cho biết, cứ 100 đồng vốn chủ sở hữu
của công ty cổ phần này tạo ra bao nhiều đồng lợi
nhuận. Nếu tỷ số này mang giá trị dương, là công
ty làm ăn có lãi; nếu mang giá trị âm là công ty làm
ăn thua lỗ. Tỷ số này phụ thuộc vào thời vụ kinh
doanh. Ngoài ra, nó còn phụ thuộc vào quy mô và
mức độ rủi ro của công ty. Để so sánh chính xác,
cần so sánh tỷ số này của một công ty cổ phần với
tỷ số bình quân của toàn ngành, hoặc với tỷ số của
công ty tương đương trong cùng ngành.
Tỷ số lợi nhuận trên vốn cổ phần (ROE) hay
được đem so sánh với tỷ số lợi nhuận trên tài sản
(ROA). Nếu tỷ số lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu
(ROE) lớn hơn tỷ số lợi nhuận trên tài sản (ROA)
thì có nghĩa là đòn bẩy tài chính của công ty đã
có tác dụng tích cực. Công ty đã thực hiện thành
công việc huy động vốn của cổ đông để kiếm lợi
nhuận với tỷ suất cao hơn tỷ lệ tiền lãi mà công ty
phải trả cho các cổ đông.
Thu nhập của mỗi cổ phiếu thường (EPS)
Thu nhập của mỗi cổ phiếu thường là lợi nhuận
(thu nhập) trên mỗi cổ phiếu. Đây là phần lợi nhuận
mà công ty phân bổ cho mỗi cổ phiếu thông thường
đang được lưu hành trên thị trường. EPS được sử
dụng như một chỉ số thể hiện khả năng kiếm lợi
nhuận của DN.
EPS =
Lãi thuần sau thuế - Cổ tức của cổ phiếu ưu đãi
Số lượng cổ phiếu đang lưu hành
Công thức trên phản ánh cụ thể về thu nhập bình
quân của cổ phiếu thường trong kỳ. Việc tính toán
EPS sẽ chính xác hơn nếu sử dụng lượng cổ phiếu
lưu hành bình quân trong kỳ để tính toán vì lượng
cổ phiếu thường xuyên thay đổi theo thời gian. Tuy
nhiên, trên thực tế, thực hiện đơn giản hoá việc
tính toán bằng cách sử dụng số cổ phiếu đang lưu
hành vào thời điểm cuối kỳ. Có thể làm giảm EPS
dựa trên công thức cũ bằng cách tính thêm cả các
cổ phiếu chuyển đổi, các bảo chứng vào lượng cổ
phiếu đang lưu thông.
EPS thường được coi là biến số quan trọng duy
nhất trong việc tính toán giá cổ phiếu. Đây cũng
chính là bộ phận chủ yếu cấu thành nên tỷ lệ P/E
(Tỷ số giá thị trường trên thu nhập của mỗi cổ phiếu
thường). Một khía cạnh rất quan trọng của EPS
thường hay bị bỏ qua là lượng vốn cần thiết để tạo
ra thu nhập ròng trong công thức tính trên.
Hai DN có thể có cùng tỷ lệ EPS nhưng một
trong hai có thể có ít cổ phần hơn, nghĩa là DN này
sử dụng vốn hiệu quả hơn. Nếu như các yếu tố khác
là cân bằng thì rõ ràng DN này tốt hơn DN còn lại.
Vì DN có thể lợi dụng các kỹ thuật tính toán để đưa
ra con số EPS hấp dẫn, nên các nhà đầu tư cũng cần
hiểu rõ cách tính của từng DN để đảm bảo “chất
lượng” của tỷ lệ trên; không nên dựa vào một thước
đo tài chính duy nhất mà nên kết hợp với các bản
phân tích tài chính và các chỉ số khác.
Tỷ số giá thị trường trên thu nhập củamỗi cổ phiếu thường
Tỷ số giá thị trường trên thu nhập của mỗi cổ
phiếu thường hay còn gọi là Hệ số giá trên thu nhập
một cổ phiếu (tỷ số P/E). P/E là tỷ số tài chính dùng
để đánh giá mối liên hệ giữa thị giá hiện tại của một
cổ phiếu (giá cổ phiếu ở thị trường chứng khoán) và
tỷ số thu nhập trên cổ phần, hay cho biết nhà đầu tư
sẵn sàng trả giá bao nhiêu cho một cổ phiếu trên thị
trường chứng khoán.
Tỷ số P/E =
Giá thị trường của một cổ phiếu
Thu nhập của mỗi cổ phiếu thường
Tỷ số P/E được sử dụng để phản ánh ở một mức
độ nhất định tiềm năng về sự phát triển và sự đánh
giá của thị trường đối với khả năng sinh lời của DN.
Bởi vì:
Thu nhập bình quân
trên một cổ phần
=
Tổng thu nhập trong kỳ
Tổng số cổ phần
Cũng có thể tính toán tỷ số P/E theo trường hợp sau:
Tỷ số P/E =
Tổng giá trị thị trường các cổ phiếu
Tổng thu nhập trong kỳ
Tỷ số P/E thấp có nghĩa là lợi nhuận trên một cổ
phần của công ty càng cao hoặc giá trị trường của
cổ phiếu thấp.
Tính toán tỷ số P/E thường trên cơ sở số liệu
của công ty trong vòng một năm. Tuy nhiên, do
lợi nhuận của công ty chịu tác động của nhiều yếu
tố, nên có thể lên cao, xuống thấp bất thường, nên