Tạp chí Tài chính kỳ 2 số tháng 6-2016 - page 4

2
TÀI CHÍNH VĨ MÔ
Trong 20 năm qua, Kiểm toán Nhà nước đã
phát hiện và kiến nghị xử lý tài chính 147.580
tỷ đồng, trong đó tăng thu ngân sách nhà nước
29.148 tỷ đồng, giảm chi ngân sách nhà nước
22.365 tỷ đồng. Tính riêng 5 năm gần đây, đã
kiến nghị xử lý tài chính 91.168 tỷ đồng, chiếm
62% tổng số kiến nghị xử lý tài chính.
động kiểm toán và công khai kết quả kiểm toán của
KTNN, đã trở thành một trong những kênh thông
tin quan trọng trong việc tạo dựng niềm tin của các
quốc gia, các ngân hàng, tổ chức tín dụng và các
nhà đầu tư nước ngoài… với Việt Nam trong bối
cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.
Đề xuất, kiến nghị
Với mục tiêu phát triển KTNN đến năm 2020 là
“Nâng cao năng lực hoạt động, hiệu lực pháp lý,
chất lượng và hiệu quả hoạt động của KTNN như
một công cụ hữu hiệu của Nhà nước trong kiểm
tra, giám sát quản lý và sử dụng tài chính, tài sản
công; xây dựng KTNN có trình độ chuyên nghiệp
cao, từng bước hiện đại, trở thành cơ quan kiểm
tra tài chính công có trách nhiệm và uy tín, đáp
ứng yêu cầu, hiện đại hóa đất nước, phù hợp với
các thông lệ và chuẩn mực quốc tế”; đồng thời, để
KTNN thực sự phát huy được vai trò lớn hơn trong
việc minh bạch NSNN, trong thời gian tới, cần chú
ý một số giải pháp sau:
Một là,
tiếp tục mở rộng quy mô hoạt động của
KTNN để thực hiện kiểm toán được nhiều hơn
nguồn tài chính công, tài sản công. Hiện nay, hàng
năm KTNN chưa thực hiện kiểm toán ngân sách
được toàn bộ các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung
ương và tại mỗi địa phương chỉ kiểm toán được
một phần nhỏ ngân sách cấp huyện; tỷ lệ số xã
được kiểm toán còn ít hơn. Mặt khác, quy mô kiểm
toán vẫn còn nhỏ so với nhu cầu công việc. Hiện cả
nước có khoảng 300.000 đơn vị sử dụng NSNN, gần
11.200 xã, 710 huyện và 63 tỉnh, đây là đối tượng
của kiểm toán NSNN. Thực trạng này đặt ra thách
thức không nhỏ cho KTNN trong việc xây dựng bộ
máy và phát triển đội ngũ kiểm toán viên, để thực
hiện kiểm toán phù hợp với yêu cầu thực tiễn, từ đó
cung cấp thông tin để các cơ quan hữu quan giám
sát công tác quản lý và sử dụng NSNN.
Hai là,
tăng cường việc kiểm toán ngay từ khâu
lập dự toán NSNN nhằm nhắc nhở, cảnh báo các
cơ quan hành pháp và lập pháp đánh giá những
kịch bản hoặc dự báo có thể xảy ra trong trung và
dài hạn liên quan đến các chu kỳ phát triển của nền
kinh tế, việc trả nợ, các chương trình mục tiêu quốc
gia và những cam kết khác như an sinh xã hội, trợ
cấp hưu trí, phòng chống thiên tai, biến đổi khí
hậu hay các cú sốc tài chính. Tham gia ý kiến ngay
từ đầu trong quá trình Chính phủ thảo luận xây
dựng dự toán NSNN trước khi trình Quốc hội. Bên
cạnh đó, cần tăng cường kiểm toán báo cáo quyết
toán NSNN với mục tiêu xây dựng và hoàn thiện
chuẩn mực về lập và trình bày báo cáo nhằm phản
qua hoạt động kiểm toán, KTNN đã kiến nghị sửa
đổi, bổ sung hoặc hủy bỏ các văn bản có liên quan
đến quản lý, sử dụng NSNN không phù hợp với
thực tiễn hoặc trái với quy định hiện hành. Những
kiến nghị sửa đổi hay hủy bỏ văn bản quản lý đó
đã góp phần làm minh bạch chính sách tài chính:
Minh bạch trong xác định nguồn thu, mức thu, số
thu NSNN và minh bạch trong chi tiêu ngân sách.
Có thể nói, các kiến nghị, đề xuất xử lý tài chính
của KTNN, đã góp phần không nhỏ làm minh bạch
NSNN và lành mạnh nền tài chính quốc gia.
Ba là,
thông tin từ KTNN ngày càng trở nên
hữu ích và không thể thiếu để hội đồng nhân dân
(HĐND) sử dụng mỗi khi quyết định những vấn
đề tài chính - ngân sách của địa phương. Theo đó,
thông qua kết quả kiểm toán của KTNN cung cấp
thông tin cho HĐND sử dụng trong quá trình xem
xét, quyết định dự toán và phân bổ ngân sách địa
phương, đảm bảo dự toán bao quát hết nguồn thu,
nhiệm vụ chi. Kết quả kiểm toán ngân sách địa
phương được KTNN kịp thời gửi đến HĐND để
thực thi quyền giám sát việc quản lý, sử dụng tài
chính công, tài sản công; Xem xét khi phê chuẩn
Báo cáo quyết toán ngân sách địa phương...
Bốn là,
đối với các doanh nghiệp nhà nước
(DNNN) hoạt động trong môi trường cạnh tranh và
hội nhập, thông qua hoạt động kiểm toán, KTNN
đã xác nhận tính trung thực của báo cáo tài chính,
tình hình sản xuất kinh doanh của đơn vị được kiểm
toán, tình hình sử dụng nguồn vốn nhà nước. Nhờ
đó, góp phần minh bạch hóa hoạt động sản xuất
kinh doanh của DNNN, tạo lập môi trường kinh
doanh minh bạch hơn, xây dựng hệ thống thông tin
tin cậy, tạo được niềm tin để các cổ đông của công
ty, các nhà đầu tư, ngân hàng, bảo hiểm, cơ quan
chức năng xem xét quyết định đầu tư và cho các
DN vay vốn… Ngoài ra, hoạt động kiểm toán còn
đánh giá tính hiệu quả, hiệu lực trong quản lý và sử
dụng nguồn lực của cơ quan, đơn vị hay của quốc
gia, góp phần giúp cho cơ quan, đơn vị hay quốc
gia có biện pháp quản lý và sử dụng các nguồn
lực một cách hiệu quả; từ đó, nâng cao sức cạnh
tranh của DN và quốc gia. Trên góc nhìn khác, hoạt
1,2,3 5,6,7,8,9,10,11,12,13,14,...126
Powered by FlippingBook