9
Lý thuyết về cấu trúc vốn và những ảnh hưởng
đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp
Nghiên cứu về lý thuyết các lợi ích bù trừ
Nghiên cứu của M&M (1963) đã chỉ ra mối quan
hệ giữa cấu trúc vốn và giá trị DN. Tuy nhiên, nhược
điểm của các lý thuyết M&M là gồm nhiều giả định
không có trong thực tiễn. Để hoàn thiện vấn đề này,
một số nghiên cứu sau đã đưa chi phí khốn khó tài
chính và chi phí quản lý đại diện vào nghiên cứu.
Trong đó, có các nghiên cứu của Kraus (1973), Jensen
và Meckling (1976), Miller (1977), DeAngelo và
Masulis (1980), Myer (1977, 1984)... Nhìn chung, các
nghiên cứu này cho rằng, một quyết định thay đổi về
cấu trúc vốn sẽ dẫn đến thay đổi về chi phí đại diện
hoặc chi phí khốn khó tài chính của DN dẫn đến thay
đổi kết quả hoạt động và giá trị của DN.
Một số nghiên cứu thực nghiệm
Zeitun, R. and Tian (2007) khi nghiên cứu về các
DN, Jordani đã khẳng định, mối quan hệ ngược
chiều giữa cấu trúc vốn và kết quả kinh doanh của
DN là chắc chắn và có ý nghĩa thống kê cao. Tuy
nhiên, nghiên cứu cũng chỉ ra tỷ suất nợ ngắn hạn
trên tổng tài sản có quan hệ cùng chiều với kết quả
kinh doanh của DN, kết luận này dường như ủng hộ
quan điểm của Myers (1977) khi cho rằng, DN nào
vay vốn ngắn hạn cao có nghĩa là đang hoạt động tốt
và tăng trưởng tốt.
Berger và Patti (2006) đã chỉ ra kết quả ủng hộ lý
thuyết chi phí đại diện của Jensen và Meckling (1976)
Tổng quan các nghiên cứu về cấu trúc vốn
Xoay quanh vấn đề cấu trúc vốn, đã có rất nhiều
nghiên cứu về đề tài này. Điển hình như Nghiên
cứu của Modigliani và Miller (M&M) (1958, 1963),
lý thuyết đánh đổi trong các nghiên cứu của Kraus
và Litzenberger (1973), Jensen và Meckling (1976), lý
thuyết trật tự phân hạng của Myers và Majluf (1984)...
Trong đó, lý thuyết Modigliani và Miller (1963) và
nhóm các lý thuyết về các lợi ích bù trừ của Kraus và
Litzenberger (1973), Jensen & Meckling (1976) Miller
(1977), DeAngelo vàMasulis (1980), Myer (1977, 1984)
về chi phí đại diện, chi phí khốn khó tài chính đã đề
cập đến ảnh hưởng của cấu trúc vốn lên giá trị doanh
nghiệp (DN) và kết quả kinh doanh của DN đó.
Về vấn đề ảnh hưởng của cấu trúc vốn lên khả
năng sinh lời của DN, có một số nghiên cứu tiêu
biểu của R. Zeitun và G. G. Tian (2007), Berger và
Patti (2006), Kipesha và Moshi (2014), Hasan, Ahsan,
Rahaman và Alam (2014)... Hầu hết các nghiên cứu
này đều đưa ra kết luận, tỷ lệ tổng nợ/tổng vốn chủ
sở hữu có tác động ngược chiều đến kết quả hoạt
động của DN. Ở Việt Nam, các nghiên cứu tiêu biểu
về vấn đề này có thể kể đến: Đoàn Ngọc Phúc (2014),
Trịnh Quốc Trung và Nguyễn Văn Sang (2013) và
Trần Hùng Sơn, Trần Viết Hoàng (2008).
Kế thừa các vấn đề nghiên cứu xoay quanh cấu trúc
vốnDNvà ảnh hưởng của cấu trúc vốn lên kết quả hoạt
động của DN, nghiên cứu này xem xét ảnh hưởng của
nhân tố cấu trúc vốn lên kết quả của DN. Phạm vi mẫu
nghiên cứu gồm 95 DN niêm yết trong ngành sản xuất
công nghiệp tại Việt Nam giai đoạn từ 2007 đến 2013.
ẢNHHƯỞNG CỦA CẤUTRÚC VỐN LÊNKẾT QUẢ
KINHDOANH CỦA DOANHNGHIỆP SẢN XUẤT CÔNGNGHIỆP
ThS. PHAN THANH HIỆP
– Đại học Ngoại thương
Với bất kỳ doanh nghiệp nào, một trong số các chỉ tiêu tài chính quan trọng nhất là khả năng sinh lời của
doanh nghiệp. Chỉ tiêu tài chính này không vận động độc lập mà chịu ảnh hưởng bởi nhiều nhân tố khác,
trong đó có cấu trúc vốn. Điều này khá dễ hiểu bởi một sự thay đổi về tỷ lệ vay nợ khiến chi phí sử dụng vốn
bình quân của doanh nghiệp thay đổi và dẫn đến tỷ suất lợi nhuận thay đổi. Tuy nhiên, cụ thể chiều hướng
tác động của nhân tố này lên khả năng sinh lời của doanh nghiệp như thế nào là một vấn đề cần nghiên
cứu. Bài viết tập trung làm rõ vấn đề này.
•
Từ khóa: Cấu trúc vốn, khả năng sinh lời, tỷ suất lợi nhuận, doanh nghiệp, công nghiệp
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI