TÀI CHÍNH -
Tháng 7/2016
7
chuyển sang áp dụng mức tính tiền chậm nộp theo tỷ
lệ quy định này từ ngày 01/07/2016.
Theo quy định cũ, mức xử phạt 0,05%/ngay đôi
vơi số tiền thuế chậm nộp. Về bản chất, mức tỷ lệ
0,05%/ngày là khoản lãi chậm nộp tiền thuế tính
trên số thuế còn nợ, tương ứng với 18,25%/năm;
trong khi lãi suất ngân hàng giai đoạn 2011-2012 là
16-20%/năm, giai đoạn 2013-2014 là 11-12%/năm và
năm 2015 là 9,5 - 10,5%/năm. Do đó, để phù hợp
với thực tế sản xuất kinh doanh của NNT, Luật số
106/2016/QH13 đã điều chỉnh quy định tỷ lệ tính
tiền chậm nộp thuế tại Luật Quản lý thuế bằng
0,03%/ngày, tương ứng khoảng 10,95%/năm.
Bên cạnh đó, Luật cũng bổ sung quy định trường
hợp NNT cung ứng hàng hoá, dịch vụ được thanh
toán bằng nguồn vốn NSNN nhưng chưa được
thanh toán nên không nộp kịp thời các khoản thuế
dẫn đến nợ thuế thì không phải nộp tiền chậm nộp
tính trên số tiền thuế còn nợ. Tuy nhiên, số tiền chậm
nộp thuế mà DN được miễn trừ chỉ giới hạn trong
phạm vi không vượt quá số tiền NSNN chưa thanh
toán và phát sinh trong thời gian NSNN chưa thanh
toán. Luật sửa đổi, bổ sung Luật Quản lý thuế bãi
bỏ Khoản 3 Điều 42 quy định về thời hạn nộp thuế
đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu.
Ngoài những điểm thay đổi nổi bật nêu trên Luật
số 106/2016/QH13 bổ sung quy định đối với trường
hợp hàng hóa nhập khẩu để xuất khẩu, hàng hóa
xuất khẩu không thực hiện việc xuất khẩu tại địa
bàn hoạt động hải quan theo quy định của Luật Hải
quan sẽ không được hoàn thuế giá trị gia tăng. Đồng
thời, đối với NNT chấp hành tốt pháp luật thuế, hải
quan, Luật thuế sửa đổi, bổ sung lần này cũng đã
có quy định thuận lợi về hoàn thuế giá trị gia tăng
như: Thực hiện hoàn thuế trước, kiểm tra sau đối
với NNT sản xuất hàng hóa xuất khẩu không vi
phạm pháp luật về thuế, hải quan trong thời gian
hai năm liên tục; NNT không thuộc đối tượng rủi ro
cao theo quy định của Luật Quản lý thuế...
Như vậy, từ ngày 1/7/2016, Luật sửa đổi, bổ sung
Luật Quản lý thuế có những điểm mới được điều
chỉnh theo hướng chia sẻ khó khăn với DN trong
thực hiện nghĩa vụ thuế theo tinh thần đẩy mạnh cải
cách hành chính, nâng cao tính khả thi của Luật.
Tài liệu tham khảo:
1. Luật số 106/2016/QH13 ngày 6/4/2016 của Quốc hội sửa đổi, bổ sung Luật
Thuế GTGT, Luật Thuế TTĐB và Luật;
2. Chính phủ: Tờ trình Dự án Luật sửa đổi bổ sung các Luật Thuế GTGT, TTĐB,
Quản lý thuế;
3. Ủy ban thường vụ Quốc hội Khóa XIII: Báo cáo giải trình, tiếp thu và chỉnh
lý dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật thuế GTGT, Luật TTĐB,
Luật Quản lý thuế.
thuế miễn, giảm theo quy định này hàng năm tuy
không đáng kể trong tổng số thu NSNN, nhưng lại có
ý nghĩa rất lớn vì đại bộ phận người dân nông thôn,
người lao động nghèo ở đô thị sẽ được miễn thuế
sử dụng đất phi nông nghiệp và cơ quan thuế cũng
giảm được chi phí về nhân lực quản lý để tập trung
vào quản lý các nguồn thu khác có hiệu quả hơn.
Theo số liệu thống kê năm 2014, cả nước có
khoảng 12,6 triệu hộ gia đình có số thuế sử dụng đất
phi nông nghiệp phải nộp từ 50.000 đồng trở xuống
với tổng số thuế trong toàn quốc là 159,6 tỷ đồng;
trong đó cơ bản là những hộ còn nhiều khó khăn. Do
vậy, để giảm tải gánh nặng cho người dân, Luật số
106/2016/QH13 quy định miễn nộp thuế sử dụng đất
phi nông nghiệp đối với hộ gia đình, cá nhân có số
thuế phải nộp hàng năm từ 50.000 đồng trở xuống.
Quy định này cũng công bằng hơn khi Việt Nam gia
nhập WTO, tham gia các hiệp định thương mại tự do
đã cam kết thực hiện miễn thuế nhập khẩu đối với
hàng hóa xuất, nhập khẩu có giá trị thuế phải nộp
50.000 đồng/tờ khai hải quan; đồng thời giảm thủ tục
hành chính kê khai, nộp thuế.
Thứ hai,
nhằm chia sẻ khó khăn với những NNT
có ý thức, thái độ tuân thủ pháp luật thuế nhưng hiện
tại đang gặp khó khăn về tài chính, cần có thời gian
để thu xếp nguồn tiền để nộp dần số thuế nợ, Khoản
4 Điều 92 Luật số 106/2016/QH13 quy định chưa thực
hiện biện pháp cưỡng chế thuế đối với trường hợp
NNT đã được cơ quan quản lý thuế cho phép nộp
dần tiền nợ thuế trong thời hạn không quá 12 tháng,
kể từ ngày bắt đầu của thời hạn cưỡng chế thuế. Việc
nộp dần tiền nợ thuế sẽ được xem xét trên cơ sở đề
nghị của NNT gắn với điều kiện là họ phải có bảo
lãnh của tổ chức tín dụng. Để bảo đảm công bằng
với NNT chấp hành tốt pháp luật và không nợ thuế,
Luật vẫn có quy định NNT phải nộp tiền chậm nộp
theo mức 0,03%/ngày tính trên số tiền thuế chậm nộp
đang được cơ quan thuế cho giãn thời hạn nộp.
Thứ ba,
quy định về mức phạt chậm nộp thuế đã
giảm từ 0,05%/ngày xuống mức thấp hơn là 0,03%/
ngày để phù hợp với mặt bằng lãi suất ngân hàng (mức
phạt chậm nộp đã giảm nhiều so với trước đây), quy
định này nhằm bảo đảm tính khả thi của quy định xử
phạt, đồng thời cũng chia sẻ khó khăn với NNT. Theo
đó, Luật số 106/2016/QH13 đã quy định: Nếu NNT
chậm nộp tiền thuế so với thời hạn quy định, ngoài
việc phải nộp đủ tiền thuế, còn phải trả tiền chậm nộp
theo mức bằng 0,03%/ngày tính trên số tiền thuế chậm
nộp. Đối với các khoản nợ tiền thuế phát sinh trước
ngày 01/07/2016 mà NNT chưa nộp vào NSNN, kể cả
khoản tiền nợ thuế được truy thu qua kết quả thanh
tra, kiểm tra của cơ quan có thẩm quyền thì cũng được