TÀI CHÍNH -
Tháng 7/2016
11
khoản vãng lai do tổ chức, cá nhân nước ngoài mở tại
Việt Nam. Để được hoàn thuế, cơ sở xuất khẩu cần hợp
thức hóa hợp đồng mua bán và chứng từ thanh toán
qua ngân hàng. Vì vậy, phát sinh trường hợp thông
đồng, lợi dụng việc hợp thức hóa hồ sơ hoàn thuế để
chiếm đoạt tiền của Nhà nước”. Qua phối hợp kiểm tra
với cơ quan chức năng nước ngoài đã phát hiện nhiều
trường hợp DN khách hàng nước ngoài không có chức
năng kinh doanh thương mại, xuất nhập khẩu mà kinh
doanh ngành nghề khác như tổ chức du lịch lữ hành,
hoặc đã ngừng hoạt động, hoặc không tồn tại. Tuy vậy,
khi đã kiểm tra phát hiện ra gian lận, có nhiều trường
hợp không thể thu hồi tiền thuế cho Nhà nước vì sau
khi nhận tiền hoàn thuế nhiều DN đã bỏ trốn không
làm các thủ tục giải thể, đóng mã số thuế theo quy định
của pháp luật. Như vậy, việc bổ sung quy định không
áp dụng thuế suất 0% đối với trường hợp xuất khẩu
không thực hiện xuất khẩu tại địa bàn hoạt động hải
quan theo Luật Hải quan sẽ giúp ngăn ngừa có hiệu
quả trường hợp gian lận hoàn thuế GTGT, chống thất
thu ngân sách nhà nước.
Tóm lại, từ những khó khăn, vướng mắc, bất cập
phát sinh trong quá trình thực thi các luật thuế và
tiếp tục hiện thực hóa chủ trương đơn giản hóa thủ
tục hành chính thuế, giảm thời gian thực hiện các thủ
tục thuế và giảm chi phí tuân thủ thuế, Quốc hội đã
thông qua Luật số 106/2016/QH13 sửa đổi, bổ sung
một số điều của Luật Thuế GTGT, Luật Thuế tiêu
thụ đặc biệt và Luật Quản lý thuế. Những điểm mới
sửa đổi, bổ sung về thuế GTGT không chỉ giải quyết
những yêu cầu cấp thiết của thực tiễn quản lý và góp
phần tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi mà còn
đồng thời tạo cơ sở pháp lý để tăng cường quản lý
nguồn thu, chống gian lận thuế và hạn chế thất thu
thuế GTGT.
Tài liệu tham khảo:
1. Chính phủ: Tờ trình Dự án Luât sưa đôi, bô sung môt sô điêu cua Luât thuê
GTGT, Luât thuê tiêu thu đặc biệt va Luât Quan ly thuê;
2. Quốc hội: Luật số 106/2016/QH13 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế
GTGT, Luật Thuế tiêu thụ đ c bi t và Luật Quản lý thuế;
3. Ủy ban Thường vụ Quốc hội khóa XIII: Báo cáo giải trình, tiếp thu va chinh ly
Dự án Luât sưa đôi, bô sung môt sô điêu cua Luât Thuê GTGT, Luât Thuê tiêu
thu đặc biệt va Luât Quan ly thuê.
hoàn thuế GTGT cho hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu,
qua đó chuyển quyền đánh thuế cho nước nơi hàng
hóa, dịch vụ được tiêu dùng. Theo đó, Khoản 1 Điều
8 Luật Thuế GTGT cũ quy định mức thuế suất 0% áp
dụng đối với hàng hóa, dịch vụ xuất khẩu, vận tải
quốc tế và hàng hóa, dịch vụ không chịu thuế GTGT
khi xuất khẩu. Tuy vậy, trong quá trình thực hiện đã
phát sinh nhiều vướng mắc. Cụ thể như sau:
- Nhiều trường hợp thuốc lá, rượu, bia (Đây là
những mặt hàng thuộc diện chịu thuế tiêu thụ đặc
biệt) nhập khẩu được mua bán lòng vòng trong nước
sau đó xuất khẩu. Cơ sở xuất khẩu chỉ đề nghị hoàn
thuế GTGT trong khi số thuế nhập khẩu và thuế
tiêu thụ đặc biệt (có mức thuế cao hơn nhiều lần
thuế GTGT) thì không đề nghị hoàn. Trong trường
hợp này, khách hàng nước ngoài phải mua với giá
có thuế nhập khẩu và thuế tiêu thụ đặc biệt cao hơn
nhiều lần so với giá cả thông thường nếu mua trực
tiếp từ nước xuất khẩu. Do vậy, việc hoàn thuế là
bất hợp lý, vô hình trung đã khuyến khích buôn lậu
từ Việt Nam ra nước ngoài hoặc có tính chất gian
lận để được hoàn thuế. Để khắc phục bất hợp lý
này, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 12/2015/
NĐ-CP quy định thuốc lá, bia, rượu nhập khẩu sau
đó xuất khẩu không được áp dụng 0%. Việc bổ sung
đối tượng “Hàng hóa nhập khẩu để xuất khẩu” vào
nhóm không được áp dụng thuế suất 0% sẽ nâng cao
tính pháp lý và đảm bảo sự minh bạch của pháp luật
thuế. Hơn nữa, quy định như vậy cũng mở rộng đối
tượng không được áp dụng thuế suất 0%, không chỉ
đối với thuốc lá, rượu, bia nhập khẩu để xuất khẩu
mà còn áp dụng đối với những mặt hàng khác, qua
đó, đảm bảo phòng ngừa gian lận trong hoàn thuế
GTGT đối với những hàng hóa khác.
- Nhiều trường hợp xuất khẩu qua cửa khẩu phụ,
đường mòn, lối mở (xuất khẩu tiểu ngạch) có dấu hiệu
gian lận, lợi dụng chính sách để chiếm đoạt tiền thuế
của Nhà nước. Tờ trình Dự án Luât sưa đôi, bô sung
môt sô điêu cua Luât Thuê GTGT, Luât Thuê tiêu thu
đăc biêt va Luât Quan ly thuê của Chính phủ khẳng
định “Thực tế các trường hợp xuất khẩu tiểu ngạch
không có hợp đồng chính tắc, không thanh toán quốc
tế qua ngân hàng theo các phương thức thanh toán có
tính thông lệ quốc tế mà sử dụng thanh toán qua tài
Tiền thuế là của dân,
do dân đóng góp
để phục vụ lợi ích của nhân dân