TÀI CHÍNH -
Tháng 7/2016
9
trở lên thì cơ ban vân la san phâm thô, GTGT trong
nước thâp nên chưa thực sự là sản phẩm đươc chế
biến sâu trong nước. Viêc không đưa vào diện không
chịu thuế GTGT và không áp dụng thuế suất 0%,
không cho hoan thuê đối với trường hợp này là nhăm
thưc hiên chinh sach han chê xuât khâu tai nguyên,
khoang san thô; khuyến khích chế biến sâu tạo GTGT
lớn hơn ở trong nước.
Ba là,
bãi bỏ hoàn thuế GTGT đối với trường hợp
lũy kế thuế GTGT đầu vào chưa khấu trừ hết từ 12
tháng hoặc 4 quý trở lên; trường hợp có thuế GTGT
đầu vào chưa được khấu trừ hết thì chuyển khấu trừ
kỳ tiếp theo. Điểm sửa đổi này xuất phát từ những
lý do sau:
- Thực tiễn quản lý thuế GTGT thời gian qua cho
thấy, phần lớn các trường hợp đề nghị hoàn thuế
khi có lũy kế thuế GTGT đầu vào chưa khấu trừ
hết từ 12 tháng hoặc 4 quý trở lên sau đó lại phát
sinh số thuế phải nộp khá lớn. Đây chính là những
trường hợp thuế GTGT đầu vào tạm thời chưa khấu
trừ hết do sự lệch pha tạm thời giữa lượng hàng
hóa, dịch vụ mua vào với lượng hàng hóa, dịch vụ
bán ra trong một khoảng thời gian nhất định dẫn
đến lượng hàng hóa tồn kho nhiều. Điều này cho
thấy, việc thực hiện quy định hoàn thuế GTGT khi
có lũy kế số thuế GTGT đầu vào chưa khấu trừ hết
từ 12 tháng hoặc 4 quý trở lên dẫn đến phát sinh
thêm nhiều thủ tục phải giải quyết để hoàn thuế
khi không thực sự cần thiết phải hoàn thuế vì có thể
để bù trừ với số thuế GTGT đầu ra sẽ phát sinh ở
những kỳ tính thuế tiếp theo.
- Thực tế cho thấy, có không ít DN thường xuyên
đề nghị hoàn thuế trong khi không có hàng hóa, dịch
vụ xuất khẩu. Ngoại trừ trường hợp sản xuất hàng
hóa thuộc nhóm thuế suất thấp (5%) hoặc có hàng
hóa, dịch vụ xuất khẩu thì việc thường xuyên có thuế
GTGT đầu vào chưa được khấu trừ hết cho thấy
nhiều dấu hiệu của gian lận trong hoàn thuế GTGT
mà thủ đoạn chủ yếu là mua hóa đơn đầu vào để
khấu trừ khống thuế GTGT.
- Thống kê về số tiền hoàn thuế GTGT những năm
qua cũng cho thấy số tiền chi hoàn thuế GTGT tăng
khá bất thường, thậm chí tăng nhanh hơn cả tốc độ
tăng thu thuế GTGT. Cụ thể như sau:
thu, chống gian lận thuế GTGT. Cụ thể như sau:
Một là,
bổ sung vào Điều 5 “Đối tượng không chịu
thuế” quy định: “Doanh nghiệp (DN), hợp tác xã
mua nông sản chưa chế biến hoặc mới sơ chế thông
thường bán cho DN, hợp tác xã thì không phải tính,
nộp thuế GTGT nhưng được khấu trừ thuế GTGT
đầu vào”. Điểm sửa đổi này xuất phát từ thực tế là,
trong thời gian vừa qua, lợi dụng quy định “Sản phẩm
trồng trọt, chăn nuôi, thuỷ sản nuôi trồng, đánh bắt
chưa chế biến thành các sản phẩm khác hoặc chỉ qua
sơ chế thông thường ở khâu kinh doanh thương mại
thì thuộc diện chịu thuế GTGT với thuế suất 5%”,
nhiều DN đã mua nông sản của nông dân (không
chịu thuế GTGT) sau đó mua hóa đơn có thuế 5% để
hợp thức đầu vào, qua nhiều khâu thương mại trung
gian trước khi bán cho cơ sở xuất khẩu để cơ sở này
được hoàn thuế.
Để khắc phục tình trạng gian lận này, các hiệp
hội, các DN xuất khẩu nông, lâm, thủy sản đã kiến
nghị quy định “Hàng hóa là nông, lâm, thủy sản ở
khâu kinh doanh thương mại đưa vào diện không
chịu thuế GTGT”. Do nội dung này thuộc thẩm
quyền của Quốc hội nên để xử lý vướng mắc thực
tế tại Nghị định số 209/2013/NĐ-CP ngày 18/12/
2013, Chính phủ đã quy định: Sản phẩm trồng trọt,
chăn nuôi, thuỷ sản chưa chế biến thành các sản
phẩm khác hoặc chỉ qua sơ chế thông thường được
bán cho DN, hợp tác xã không phải kê khai, tính
nộp thuế GTGT đầu ra, cơ sở kinh doanh mua vào
không phải trả thuế GTGT đầu vào cũng như không
phải khấu trừ số thuế này. Do vậy, quy định mới
này sẽ nâng cao tính pháp lý, minh bạch hóa quy
định pháp luật và góp phần chống gian lận trong
hoàn thuế GTGT.
Hai là,
bổ sung thêm vào đối tượng không chịu
thuế GTGT và không thuộc diện được áp dụng thuế
suất 0% đối với “Sản phẩm xuất khẩu là hàng hóa
được chế biến từ tài nguyên, khoáng sản có tổng trị
giá tài nguyên, khoáng sản cộng với chi phí năng
lượng chiếm từ 51% giá thành sản phẩm trở lên”.
Điểm bổ sung này xuất phát từ việc phát sinh bất
cập của Luật Thuế GTGT cũ qua thực tiễn quản lý
thuế thời gian qua. Theo đó, Luật Thuế GTGT cũ
đã quy định “Tài nguyên, khoáng sản chưa qua chế
biến thành sản phẩm khác” thuộc đối tượng không
chịu thuế GTGT và không thuộc diện được áp dụng
thuế suất 0% là nhằm hạn chế xuất khẩu tài nguyên,
khoáng sản thô.
Tuy nhiên, qua khao sat thưc tê cho thây, đối với
sản phẩm hàng hóa có tông tri gia tai nguyên khoang
san công vơi chi phi năng lương (gồm chi phí điện,
xăng, dầu, than) chiêm tư 51% gia thanh sản phẩm
Việc bổ sung đối tượng hàng hóa nhập khẩu
để xuất khẩu vào nhóm không được áp dụng
thuế suất 0% sẽ nâng cao tính pháp lý và
đảm bảo sự minh bạch của pháp luật thuế.
Hơn nữa, quy định như vậy cũng mở rộng đối
tượng không được áp dụng thuế suất 0%.