84
DIỄN ĐÀN KHOA HỌC
nhất cho người dân.
Các doanh nghiệp cũng sẽ thiết lập mở rộng thị
trường gạo cao cấp nhằm đa dạng hóa nhu cầu,
nâng cao chất lượng sản phẩm, hiệu quả sản xuất
- kinh doanh và giá trị gia tăng, hạn chế phụ thuộc
quá lớn vào một vài thị trường gần, tận dụng lợi thế
các hiệp định thương mại tự do mang lại:
- Xây dựng thương hiệu gạo Việt Nam thông qua
tuyên truyền tới người dân để mỗi người Việt Nam,
từ nông dân tới nhà kinh doanh, đều có ý thức xây
dựng thương hiệu và giữ gìn uy tín cho hạt gạo Việt.
- Tăng cường thông tin về các thị trường đang
hướng tới, biết được sản xuất của họ tăng giảm bao
nhiêu, các đối thủ cạnh tranh đang có chiến lược gì…
- Giảm giá thành sản xuất từ khâu hạt giống, phân
bón, thất thoát, chế biến, thu mua trung gian… cùng
biện pháp liên kết giữa 3 nhà (sản xuất, chế biến và
xuất khẩu) để tăng sức cạnh tranh trên thị trường
xuất khẩu. Chu đông đươc nguôn giông, sản xuất
theo quy trình khép kín từ khâu giống đến chế biến.
- Đam bao chất lượng hạt gạo để tạo uy tín với
khách hàng: Vê sinh an toan thưc phâm, không co dư
lương hóa chất bảo vệ thực vật, kim loại nặng có hại
cho sức khỏe, lam sao đê hat gao du bao quan lâu vân
giư đươc hương thơm va đô deo, không co san thoc;
- Lưa chon môt sô giông/loai phu hơp vơi nhu
câu/sơ thich cua khach hang,̉
kiên tri phat triên môt
cach bai ban. Hiên gao xuât khâu cua Viêt Nam
chưa co đươc thương hiêu chu yêu, bơi chât lương
không đông đêu, không co sư nôi bât;
- Chú trọng khai thác triệt để thị trường nội địa,
đặc biệt là các loại gạo phẩm cấp cao và các sản
phẩm làm từ gạo. Điều này không chỉ là nhiệm vụ
của nông dân và doanh nghiệp mà cần có cả sự hỗ
trợ của Nhà nước.
Ngoài ra, để đảm bảo người trồng lúa có lãi,
cũng như đảm bảo vấn đề an ninh lương thực quốc
gia, cần có sự thay đổi phương thức hỗ trợ người
nông dân mang tính dài hơi, bền vững. Trước hết là
quy hoạch sản xuất để không xảy ra tình trạng loại
gạo cần thì có, loại đang có lại không bán được. Tiếp
nữa là sự can thiệp trong giai đoạn thu hoạch lúa
làm sao để mang lại hiệu quả cao, chẳng hạn như có
chính sách hỗ trợ tài chính cho người nông dân hoặc
hợp tác xã xây dựng kho bãi, sân phơi…
Tài liệu tham khảo
1.
-
khau-gao-481834.vov;
2.
;
3. Hà Văn Hội, Tham gia TPP: cơ hội và thách thức đối với xuất khẩu gạo của
Việt Nam, tạp chí khoa học ĐHQGHN, tập 31, số 1/2015.
gạo nhập khẩu toàn cầu. Điều này cho thấy, các nước
xuất khẩu gạo có xu hướng tập trung hơn, trong khi
các nước nhập khẩu khá phân tán. Việc quá chú trọng
đến tăng sản lượng dẫn đến chất lượng gạo xuất khẩu
của Việt Nam không cao, thị trường xuất khẩu tập
trung ở phân đoạn thấp, kém đa dạng và đặc biệt
đang tập trung rất nhanh vào thị trường Trung Quốc.
Khi những thị trường xuất khẩu này gặp khó khăn,
lập tức tạo sức ép giảm giá lên toàn bộ thị trường nội
địa, gây thiệt hại cho các thành phần trong chuỗi sản
xuất lúa gạo trong nước, đặc biệt là người nông dân.
Thương hiệu tạo nên giá trị, gạo Việt Nam chưa có
thương hiệu thì khó cạnh tranh trên thế giới và không
bán được giá cao. Điều này đã được cảnh báo từ nhiều
năm trước đây. Nhà nước đã khuyến khích xây dựng
thương hiệu nhưng các doanh nghiệp làm ăn ở thị
trường chất lượng thấp, nên không chịu đầu tư.
Trong năm 2015, Việt Nam xuất khẩu gạo đạt gần
6,6, triệu tấn, trị giá hơn 2,8 tỷ USD, tăng 4% về số
lượng nhưng giảm 4,5% về giá trị xuất khẩu so với
năm 2014. Tổ chức Nông lương Liên Hợp Quốc (FAO)
ước tính sử dụng gạo toàn cầu niên vụ 2015-2016 đạt
498,2 triệu tấn, tăng 1,1% so với 492,7 triệu tấn năm
2014-2015 do lượng gạo sử dụng làm lương thực tăng
5,3 triệu tấn lên 401,5 triệu tấn; tiêu thụ gạo theo đầu
người năm 2015 - 2016 đạt 54,6 kg. Trong năm 2016,
cac nươc đang phat triên dư bao se nhâp khâu tông
công 39,4 triêu tân gao, tăng 1,3% so vơi năm 2015.
Theo Chủ tịch Hiệp hội lương thực Việt Nam (VFA),
các điều kiện xuất khẩu gạo của Việt Nam năm nay
rất thuận lợi với lượng gạo lưu kho tương đối thấp so
với năm 2015. Bên cạnh một số hợp đồng xuất khẩu
đạt khoảng 1,3 triệu tấn ký kết trước đó, các thị trường
truyền thống như Indonesia và Philippines được dự
đoán sẽ tiếp tục đặt hàng trong năm 2016. Hơn nữa,
sản lượng gạo vụ đông xuân khoảng 3 triệu tấn nên
Việt Nam có thể xuất khẩu 4,3 triệu tấn gạo trong nửa
đầu năm nay.
VFA cũng dự đoán thị trường xuất khẩu gạo vẫn
sẽ ổn định cho đến hết năm nay khi Trung Quốc,
Indonesia, Malaysia và Philippines có thể ký thêm
hợp đồng nhập khẩu gạo nhằm ổn định nguồn cung
nội địa và đối phó với hiện tượng El Nino. Như vậy,
năm 2016, xuất khẩu gạo dự báo sẽ bớt khó khăn
hơn năm 2015, bởi san lương dự báo giam do thơi
tiêt, keo theo dư trư sut giam.
Củng cố thị trường, đẩy mạnh xuất khẩu gạo
Trước tình hình giá gạo đang biến động, Nhà
nước cần không ngừng đề ra những chính sách, chủ
trương và kế hoạch nhằm bình ổn giá gạo, củng cố
thị trường xuất nhập khẩu và tạo điều kiện thuận lợi