90
DIỄN ĐÀN KHOA HỌC
Thực trạng vốn đối với ngành công nghiệp hỗ trợ
Theo Viện Nghiên cứu chiến lược, chính sách
công nghiệp (Bộ Công Thương), các FTA được kỳ
vọng là cú huých mạnh để nâng cao kim ngạch xuất
khẩu sản phẩm công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam, cơ
hội để nhập khẩu nguyên phụ liệu đầu vào rẻ hơn
từ những quốc gia có chất lượng cao hơn, giảm phụ
thuộc vào Trung Quốc. Đặc biệt, các cam kết chặt
chẽ trong các FTA mà trực tiếp là quy định về nguồn
gốc xuất xứ hay tỷ lệ nội địa hóa, để được hưởng
ưu đãi thuế quan của các quốc gia thành viên, là
động lực thúc đẩy phát triển ngành công nghiệp hỗ
trợ cũng như mở rộng quy mô sản xuất của các DN
Việt Nam. Tuy nhiên, thống kê của Bộ Công Thương
cũng cho thấy, trong tổng số hơn 500.000 doanh
nghiệp (DN) cả nước thì chỉ có 1.383 DN hoạt động
trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ, chiếm 0,3% DN
đang hoạt động. Như vậy, so với số lượng DN của
Việt Nam thì tỷ lệ DN trong ngành công nghiệp hỗ
trợ còn quá ít và phần nào cho thấy, viễn cảnh khó
khăn về cạnh tranh của các DN công nghiệp hỗ trợ
trong thời gian tới.
Nhằm giúp ngành công nghiệp hỗ trợ phát triển,
thời gian qua, Chính phủ đã ban hành nhiều cơ chế
ưu đãi cho DN công nghiệp hỗ trợ, như: Miễn 4 năm
đầu thuế thu nhập DN, giảm 50% trong 9 năm tiếp
theo; miễn thuế nhập khẩu đối với hàng hóa nhập
khẩu để tạo tài sản cố định, nguyên liệu vật tư, linh
kiện để thực hiện dự án đầu tư… Đặc biệt, Nghị
định 111/2015/NĐ ngày 03/11/2015 về phát triển
công nghiệp hỗ trợ của Chính phủ cũng cho phép
nhà đầu tư hưởng ưu đãi 50% kinh phí sản xuất thử
trong hoạt động nghiên cứu và phát triển.
Tuy nhiên, dù nhận được nhiều sự ủng hộ và hỗ
trợ của Chính phủ, song đến nay số lượng DN công
nghiệp hỗ trợ vẫn rất ít ỏi và các DN này đang rất
khó khăn về vốn để triển khai các chiến lược nói
chung và đầu tư trang thiết bị, chuyển giao công
nghệ sản xuất phù hợp nói riêng. Với nguồn lực
ngân sách nhà nước còn eo hẹp, phần đầu tư cho
ngành công nghiệp hỗ trợ rất hạn chế. Hơn nữa, các
DN trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ cũng rất khó
tiếp cận sự hỗ trợ của Nhà nước.
Về nguyên tắc, các DN công nghệ hỗ trợ hiện
cũng có thể tiếp cận được nguồn vốn từ 40 quỹ hỗ
trợ ngành công nghiệp hỗ trợ. Tuy nhiên, thực tế
cho thấy, nhiều DN khó có thể tiệp cận được nguồn
vốn từ các quỹ này, vì việc thẩm định dự án, đề án
của các đơn vị chưa tốt, cơ chế vay khá rắc rối. Hơn
nữa, các quỹ này chưa hoạt động thực sự hiệu quả
vì đa số là những quỹ của Chính phủ theo ngân sách
nhà nước, cho nên cơ chế, chính sách, quy trình hoạt
động của các quỹ này tương đối phức tạp. Sự phối
hợp giữa các bộ, ngành trong giải quyết khó khăn,
vướng mắc của các quỹ này chưa hiệu quả. Bên cạnh
đó, do quy định và cách hiểu còn khác nhau nên hầu
hết các quỹ này đều chỉ được mở tài khoản tại Kho
bạc, vì thế không thực hiện chức năng cho vay theo
hình thức tín dụng. Trong khi đó, hiện có quá ít quỹ
tư nhân, cho nên cơ chế vận hành theo cơ chế thị
trường chưa được rõ. Thị trường vốn của nước ta
hiện nay cũng phát triển chưa đồng bộ, nên việc huy
GIẢI PHÁPVỀ VỐN CHO PHÁT TRIỂN CÔNGNGHIỆP
HỖTRỢỞVIỆT NAM
ThS. TRẦN THỊ BÍCH LAN
- Đại học Thương mại
Phát triển công nghiệp hỗ trợ có vai trò quan trọng trong nền kinh tế, là động lực trực tiếp tạo ra giá trị
gia tăng, giúp tăng sức cạnh tranh của sản phẩm công nghiệp và đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa
quốc gia. Việt Nam đã và đang tham gia 16 Hiệp định thương mại tự do (FTA), trong đó có một số FTA thế
hệ mới như Hiệp định Đối tác chiến lược xuyên Thái Bình Dương, FTA Việt Nam – Liên minh châu Âu…
Điều này, sẽ mở ra cơ hội lớn cho ngành công nghiệp hỗ trợ. Bài viết đánh giá thực trạng vốn cho công
nghiệp hỗ trợ hiện nay, từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm tạo vốn cho doanh nghiệp trong lĩnh vực này
phát triển trong tương lai.
•
Từ khóa: Công nghiệp hỗ trợ, vốn ngân hàng, thị trường tài chính, huy động vốn, xuất khẩu.