8
KINH TẾ - TÀI CHÍNH VIỆT NAM TRƯỚC SỨC ÉP ĐỔI MỚI TỪ CÁC HIỆP ĐỊNH FTA
Thực trạng tham gia FTA củaViệt Nam
Hiệpđịnh thươngmại tựdo (Free TradeAgreement
– FTA) là thỏa thuận giữa các bên thamgia ký kết dành
cho nhau ưu đãi về mở cửa thị trường hàng hóa, dịch
vụ, đầu tư, thuế quan. Thực hiện cam kết FTA, các
nước phải tiến hành theo lộ trình việc cắt giảm và xóa
bỏ hàng rào thuế quan, phi thuế quan nhằm tiến tới
việc thành lập một khu vực mậu dịch tự do.
Theo thống kê của Tổ chức thương mại thế giới
(WTO), hiện trên thế giới có khoảng gần 400 Hiệp
định FTA song phương, đa phương có hiệu lực. Các
Hiệp định FTA diễn ra dưới hình thức song phương
và đa phương, nghĩa là có thể được thực hiện giữa hai
nước riêng lẻ hoặc có được giữa một khối thương mại
và một quốc gia như Hiệp định FTA Liên minh châu
Âu (EU) - Chile, Hiệp định FTAASEAN - Trung Quốc,
Hiệp định FTAViệt Nam – EU…
Việc hình thành các Hiệp định FTAhiện đang là xu
thế tất yếu trong quá trình hội nhập, phát triển mà các
quốc gia không thể đứng ngoài cuộc. Nhận thức rõ
điều này, trong những năm qua Việt Nam rất tích cực
tham gia đàm phán, ký kết các Hiệp định FTA song
phương và đa phương. Đến nay, Việt Nam đã chính
thức tham gia, ký kết và thực hiện 8 Hiệp định FTA.
Tháng 07/1995, Việt Nam đã ký kết các điều ước
quốc tế gia nhập ASEAN và chính thức tham gia Khu
vựcmậu dịch tựdoASEAN (AFTA) vào tháng 01/1996.
Tiếp đó, Việt Nam đã tham gia một số Hiệp định FTA
như: ASEAN – Trung Quốc (ACFTA) được thiết lập
bởi Hiệp định khung về hợp tác kinh tế ASEAN –
Trung Quốc năm 2002, Hiệp định thương mại hàng
hóa ASEAN – Trung Quốc (ACTIG) năm 2004, thực
hiện từ 01/07/2005; riêng Việt Nam còn được điều
chỉnh bởi Biên bản ghi nhớ Việt Nam – Trung Quốc
(tháng 07/2005); ASEAN – Hàn Quốc (AKFTA) được
thiết lập bởi Hiệp định thương mại hàng hóa ASEAN
– Hàn Quốc (AKTIG) ký kết tháng 08/2006, thực hiện
từ 01/06/2007; Khu vực thương mại tự do ASEAN –
Nhật Bản (AJFTA) được thiết lập bởi Hiệp định đối
tác kinh tế toàn diện ASEAN – Nhật Bản (AJCEP) ký
kết năm 2003, thực hiện từ năm 2008; riêng Việt Nam
còn được điều chỉnh bởi Hiệp định đối tác kinh tế
Việt Nam – Nhật Bản (VJEPA) năm 2008, thực hiện từ
01/01/2009.
Bên cạnh đó, khu vực mậu dịch tự do ASEAN-
Australia/New Zealand (AANZFTA) được thiết
lập bởi FTA và quan hệ kinh tế thân thiện toàn diện
ASEAN-Australia/New Zealand (AANZCERFTA), ký
kết tháng 02/2009, thực hiện từ 01/01/2010 cũng đều
có sự tham gia của Việt Nam. Khu vực thương mại
tự do ASEAN - Ấn Độ (AIFTA) được hình thành và
thiết lập bởi Hiệp định khung về hợp tác kinh tế toàn
diện ASEAN - Ấn Độ (AICECA) ký năm 2003 và Hiệp
định thương mại hàng hóa ASEAN - Ấn Độ (AITIG)
ký kết năm 2009, thực hiện từ 01/06/2010. Khu vực
thương mại Việt Nam – Chile được thiết lập bởi Hiệp
định FTA song phương Việt Nam – Chile ký kết tháng
10/2011.
Đặc biệt, từ giữa năm 2012, tiến trình đàm phán
tham gia các Hiệp định FTA đã được đẩy mạnh hơn.
Đến cuối năm 2014, Việt Nam và các đối tác đã kết
thúc đàm phán 3 Hiệp định FTA song phương và đa
phương: Hiệp định FTA Việt Nam với EU (EVFTA),
với Hàn Quốc (VKFTA), với Liên minh Hải quan Nga
- Belarus - Kazakhstan (VCUFTA). Đây là dấu ấn rất
VIỆT NAMTHAMGIA CÁC HIỆP ĐỊNH FTA:
THỰCTRẠNG, CƠHỘIVÀTHÁCHTHỨC
ThS. TRẦN THỊ TRANG
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế toàn cầu, mở rộng tự do hóa thương mại, làn sóng ký
kết các Hiệp định thương mại tự do (FTA) đang trở nên mạnh mẽ trên khắp thế giới và trở
thành một xu thế mới trong quan hệ kinh tế quốc tế. Không nằm ngoài xu thế đó, trong
những năm qua Việt Nam đã rất nỗ lực, tích cực tham gia ký kết nhiều Hiệp định thương
mại tự do, mở ra nhiều cơ hội phát triển kinh tế - xã hội.