16
KINH TẾ - TÀI CHÍNH VIỆT NAM TRƯỚC SỨC ÉP ĐỔI MỚI TỪ CÁC HIỆP ĐỊNH FTA
thực hiện hiệp định, Việt Nam cam kết tự do hóa
đối với khoảng 87,7% kim ngạch thương mại và
Nhật Bản cam kết tự do hóa đối với 94,5% kim
ngạch thương mại.
Biểu thuế cam kết của Việt Nam đến 31/3/2015
bao gồm 9.390 dòng thuế. Việt Nam cam kết xóa bỏ
thuế quan đối với 75,2% số dòng thuế trong vòng
10 năm, trong đó xóa bỏ thuế quan ngay khi Hiệp
định có hiệu lực đối với 27,5% dòng thuế và xóa
bỏ thuế quan sau 10 năm (năm 2019) đối với 40,3%
dòng thuế. Theo tính toán khi thực hiện cả hai Hiệp
định ASEAN – Nhật Bản và Việt Nam – Nhật Bản,
thu NSNN sẽ giảm 4,2 triệu USD mỗi năm trong giai
đoạn 2015-2018. Thu NSNN với các mặt hàng trong
khuôn khổ hai hiệp định này ước tính gần 340 triệu
USD năm 2014.
Hiệp định FTA ASEAN – Australia – New Zealand
Hiệp định này có hiệu lực với Việt Nam từ ngày
01/01/2010. Theo cam kết, tính đến năm 2014 có
khoảng 28% số dòng thuế có mức 0%. Đến 2020, các
mặt hàng thuộc danh mục thông thường chiếm 90%
số dòng thuế và sẽ được cắt giảm về 0%. Ước tính,
NSNN sẽ giảm thu gần 3,6 triệu USD năm 2015; 12,5
triệu USD năm 2016; hơn 1 triệu USD năm 2017; và
1 triệu USD năm 2018.
Hiệp định FTA ASEAN - Ấn Độ
Tham gia từ năm 2009, Việt Nam bắt đầu thực
hiện các cam kết thuế từ năm 2010. Tính đến năm
2014 có khoảng 12,3% số dòng thuế có mức thuế
suất 0%. Đến năm 2018, Việt Nam sẽ cắt giảm 60,7%
số dòng thuế về 0%. Năm 2021 cắt giảm 22,7% số
dòng thuế còn lại xuống 0%. Năm 2024 cắt giảm
thuế danh mục nhạy cảm cao và kết thúc lộ trình
giảm thuế. Ước tính, mức tăng thu NSNN trong
bình trong giai đoạn 2014-2018 là hơn 15%/năm (dự
kiến thu ngân sách hơn 59 triệu USD năm 2014 tăng
lên 104 triệu USD năm 2018).
Hiệp định FTA Việt Nam – Chile
Việt Nam ký kết hiệp định này vào tháng 11/2011.
Việt Nam cam kết xóa bỏ thuế quan đối với gần
83,9% số dòng thuế trong vòng 10 năm kể từ khi
Hiệp định có hiệu lực và xóa bỏ thêm 4,7% số dòng
thuế trong vòng 15 năm.
Năm 2015 được đánh giá là năm bản lề quan
trọng của Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh
tế quốc tế. Năm nay đánh dấu bước khởi đầu của
lộ trình cắt giảm ở mức sâu nhất và tiến tới cam
kết cuối cùng về xóa bỏ thuế quan của thuế suất
nhập khẩu trong các FTA mà Việt Nam đã ký với
các đối tác quan trọng như ASEAN, Trung Quốc và
Hàn Quốc… Bên cạnh đó, Hiệp định đối tác chiến
lược xuyên Thái Bình Dương (TPP) và Hiệp định
tự do thương mại Việt Nam-EU dự kiến sẽ được ký
kết trong năm nay cũng hứa hẹn những sự thay đổi
kèm theo đó là nhiều áp lực mới.
Những tác động đến nền kinh tế
Tham gia hội nhập kinh tế quốc tế nói chung
và các FTA nói riêng, cơ hội và thách thức sẽ chia
đều cho tất cả các bên, sẽ có những tác động hai
chiều đối với mỗi quốc gia. Đối với Việt Nam, trong
những năm qua, chính sách mở cửa hội nhập, tham
gia vào các FTA đã đóng góp đáng kể vào công cuộc
phát triển, cải cách kinh tế đất nước.
Cụ thể, hội nhập đã góp phần tăng trưởng kinh
tế, tạo thuận lợi cho phát triển. Đầu tư từ các nước
đối tác thương mại với Việt Nam luôn trong nhóm
dẫn đầu góp phần vào quá trình sản xuất, tạo công
ăn việc làm cho người dân và đem lại lợi ích kinh
tế cho xã hội. Tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế đã
mở ra nhiều không gian phát triển mới cho kinh tế
đất nước. Theo đó, GDP của Việt Nam luôn đạt tốc
độ tăng trưởng cao, thời kỳ 1992-1997 bình quân là
8,75%/năm, thời kỳ 2002-2007 bình quân là 7,55%/
năm, thời kỳ 2008-2013 dù chịu ảnh hưởng tiêu
cực của khủng hoảng kinh tế toàn cầu, tốc độ tăng
trưởng GDP bình quan của Việt Nam vẫn đạt 5,85%/
năm; riêng năm 2014 GDP đạt 5,98%.
Việc mở rộng FTAvới nhiều đối tác không những
giúp Việt Nam tránh phụ thuộc vào các thị trường
truyền thống mà còn đa dạng hóa thị trường xuất
khẩu, đặc biệt là lợi thế thương mại từ các thị trường
mới. Năm 2011, Việt Nam xuất khẩu nông sản sang
gần 160 nước trên thế giới và khu vực đến nay đã
tăng lên khoảng 240 quốc gia, vùng lãnh thổ. Cán
cân thương mại tăng nhanh, mặc dù giai đoạn sau
năm 2003 có dấu hiệu thâm hụt thương mại, tuy
nhiên, đến năm 2014, cán cân thương mại đã có dịch
chuyển đáng ghi nhận từ nhập siêu sang xuất siêu.
Theo đó, năm 2014, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu
hàng hoá cả nước đạt hơn 298,24 tỷ USD, tăng 12,9%,
tương ứng tăng 34,17 tỷ USD so với năm 2013; trong
đó xuất khẩu đạt kim ngạch 150,19 tỷ USD, tăng
13,7%, tương ứng tăng hơn 18,15 tỷ USD; nhập khẩu
đạt hơn 148,05 tỷ USD, tăng 12,1%, tương ứng tăng
hơn 16,02 tỷ USD. Cán cân thương mại hàng hóa
năm 2014 đạt mức thặng dư 2,14 tỷ USD, mức cao
nhất từ trước đến nay.
Bên cạnh đó, với việc thực hiện các Hiệp định,
Việt Nam đã tạo ra cơ hội to lớn trong thu hút đầu
tư nước ngoài, chuyển dịch luồng vốn đầu tư vào