10
KINH TẾ - TÀI CHÍNH VIỆT NAM TRƯỚC SỨC ÉP ĐỔI MỚI TỪ CÁC HIỆP ĐỊNH FTA
tiêu chuẩn kỹ thuật, khả năng quản trị, công nghệ cao
nếu DNViệt Nam không thay đổi để thích ứng thì khó
có thể tham gia sâu vào thị trường này.
Hiệp định FTAViệt Nam - Hàn Quốc không chỉ có
ý nghĩa tăng cường hợp tác thương mại song phương
hướng tới mục tiêu 70 tỷ USD vào năm 2020, mà còn
góp phần thúc đẩy toàn diện quan hệ Đối tác hợp tác
chiến lược Việt Nam - Hàn Quốc. Theo dự báo, khi
thực hiện Hiệp định FTA song phương này, các DN
Hàn Quốc sẽ có một “cuộc đổ bộ” lớn vào Việt Nam.
Tính đến nay, Hàn Quốc là đối tác đầu tư nước ngoài
lớn nhất tại Việt Nam cả về quy mô tổng vốn đầu tư
và số dự án, với tổng vốn đăng ký đạt 36,71 tỷ USD
và 4.063 dự án đầu tư còn hiệu lực. Các DN FDI Hàn
Quốc là thành phần quan trọng trong nền kinh tế Việt
Nam, sử dụng trên 50 vạn lao động và đóng góp trên
25% tổng giá trị xuất khẩu của Việt Nam. Việt Nam
cũng là đối tác đầu tư ra nước ngoài lớn thứ 3 của
Hàn Quốc sau Mỹ, Trung Quốc. Khoảng 95% các dự
án đầu tư của Hàn Quốc được thực hiện bởi các DN
nhỏ và vừa (quy mô dưới 500 người, doanh thu dưới
150 triệu USD) chủ yếu tập trung vào lĩnh vực công
nghiệp nhẹ như ngành may mặc, sản xuất giày, dép…
Quan hệ thương mại giữa hai nước trong những năm
qua cũng phát triển mạnh, từ 500 triệu USD năm 1992
lên 2,1 tỷ USD năm 2000, 278,3 tỷ USD vào năm 2013,
con số này tính đến hết tháng 10/2014 đã tăng trên
4,5% so với cùng kỳ năm 2013. Hai nước đặt mục tiêu
nâng kim ngạch thương mại song phương lên 70 tỷ
USD vào năm 2020, dự kiến sẽ chiếm 30% tổng kim
ngạch thương mại ASEAN - Hàn Quốc (200 tỷ USD).
Tuy nhiên, trong những năm qua, Hàn Quốc là một
trong những đối tác mà Việt Nam có thâm hụt thương
mại cao nhất (năm 2013 là 14,067 tỷ USD) do Việt Nam
phải nhập khẩu máy móc, thiết bị, tư liệu sản xuất.
Số lượng các DN Việt Nam có hoạt động kinh doanh
xuất, nhập khẩu với Hàn Quốc tính đến hết tháng
11/2014 là 13,1 nghìn DN, năm 2013 con số này là 10,9
nghìn DN.
Liên minh Hải quan (gồm Nga, Belarus,
Kazakhastan) là thị trường rộng lớn, mới mở cửa, có
mức tăng trưởng GDP khá và tương đối ổn định. Tổng
GDP của khối hiện nay đạt khoảng 2.500 tỷ USD. Đối
với hàng tiêu dùng, đây cũng là thị trường không quá
khó tính, nhu cầu tiêu dùng hàng nhập khẩu đang
ngày càng được đa dạng hóa, nhất là trong bối cảnh
phương Tây gia tăng trừng phạt kinh tế Nga. Dự báo,
sau khi FTA Việt Nam - Liên minh Hải quan có hiệu
lực, kim ngạch hai chiều của hai bên sẽ tăng bình quân
18 - 20%/năm, từ mức khoảng 4 tỷ USD năm 2014 lên
10 - 12 tỷ USD vào năm 2020. Lĩnh vực đầu tư, dịch vụ
tài chính - ngân hàng, logistics và hợp tác về hải quan
cũng được hai bên ưu tiên tự do hóa. FTA sẽ giúp cho
DN hai bên học hỏi lẫn nhau để cùng phát triển, nâng
cao khả năng cạnh tranh, đồng thời cũng tạo cơ hội
cho Việt Nam tranh thủ tiếp thu công nghệ tiên tiến
của Liên minh này trong quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước.
Bên cạnh các cơ hội lớn, cũng có không ít thách
thức đang đặt ra đối với Việt Nam yêu cầu cần phải
thay đổi để khắc phục các hạn chế, yếu kém để tận
dụng thời cơ phát triển. Cụ thể:
Thứ nhất
, về năng lực quản lý. Thách thức đặt ra với
cơ quan quản lý nhà nước cần phải hoàn thiện và bổ
sung cơ chế, chính sách về phát triển các ngành công
nghiệp nội địa trong khi năng lực cạnh tranh vẫn yếu
kém. Thực tế, hệ thống pháp luật và năng lực quản lý
Nhà nước trên một số lĩnh vực trực tiếp liên quan đến
hội nhập quốc tế nói chung và tham gia FTAnói riêng
hiện còn nhiều bất cập. Kết cấu hạ tầng còn yếu kém,
nhất là hạ tầng phát triển kinh tế và xuất nhập khẩu.
Chất lượng nguồn nhân lực, nhất là đội ngũ chuyên
gia còn nhiều hạn chế, cả ở trong khâu đàm phán ký
kết FTA và thực hiện các cam kết. Ngoài ra, những
thách thức từ việc giảm thuế nhập khẩu dẫn đến giảm
thu ngân sách; Cơ cấu XNK thâm hụt ngân sách ngày
càng gia tăng, đặc biệt với các đối tác như Trung Quốc,
Hàn Quốc, Nhật Bản và ASEAN; Sự phối hợp giữa
các bộ, ngành, giữa trung ương với địa phương chưa
thực sự hiệu quả, từ đó dẫn đến lúng túng khi đưa ra
chính sách và xử lý các vấn đề phát sinh trong khi sức
ép từ các ràng buộc cam kết trong Hiệp định FTAngày
càng tăng.
Thứ hai,
năng lực cạnh tranh của DN còn yếu. Mặc
dù được tạo điều kiện, các DNNN vẫn chưa phát huy
được vai trò dẫn dắt, chủ đạo trong chuyển dịch cơ
cấu kinh tế, đổi mới và phát triển công nghệ. Khu
vực tư nhân đã phát triển nhưng quy mô còn nhỏ và
hạn chế về năng lực tài chính, công nghệ; các ngành
sản xuất trong nước phải đối mặt với sức cạnh tranh
về giá cả, chất lượng của hàng nhập khẩu. Đặc biệt,
trong nông nghiệp, Việt Nam còn thiếu gắn kết giữa
các ngành, địa phương, quá trình triển khai chưa có
sự chuẩn bị đúng mức về nội lực cho cả DN và nông
dân. Do vậy, nhiều DN sản xuất hàng nông sản đã
gặp phải tình trạng giảm sút lợi nhuận, nợ tăng cao,
dẫn đến phá sản hoặc chuyển hướng sang nhập khẩu.
Ngành công nghiệp phụ trợ của Việt Nam chưa phát
LỘ TRÌNH CẮT GIẢM THUẾ ĐỐI VỚI Ô TÔ, XE MÁY
TRONG KHU VỰC ASEAN
2014 2015 2016 2017 2018
Mức thuế nhập khẩu
50% 50% 40% 30% 0%
Nguồn: Bộ Tài chính