TÀI CHÍNH -
Tháng 6/2016
67
năm 20.000 người, nâng tỷ lệ lao động qua đào
tạo ở Tỉnh từ 20% (năm 2010) lên 35% (năm
2015), đáp ứng bước đầu nguồn nhân lực cho
các cơ sở sản xuất, chế biến nông lâm thủy sản,
các khu công nghiệp, thực hiện chuyển dịch cơ
cấu lao động nông nghiệp, nông thôn. Bên cạnh
đó, Tỉnh cũng gắn đào tạo với việc bố trí nguồn
nhân lực theo yêu cầu phát triển sản xuất, mở
rộng ngành nghề, dịch vụ ở từng địa phương,
đơn vị, cơ sở sản xuất kinh doanh, đã bố trí đủ
nhân viên kỹ thuật cho các trạm chuyên ngành:
Khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, bảo
vệ thực vật, thú y ở các huyện thị, thành phố
và gần 350 kỹ thuật viên có trình độ trung cấp
trở lên trong Tổ kinh tế - kỹ thuật ở 113/131 xã
phường nông nghiệp trong tỉnh, làm nhiệm vụ
hướng dẫn chuyển giao kỹ thuật cho người dân.
Đồng thời, tổ chức lao động nông nghiệp nông
thôn theo các hình thức tổ hợp tác, hợp tác xã,
các câu lạc bộ chuyên ngành: Sản xuất giống,
khuyến nông, bảo vệ thực vật, chăn nuôi, làm
vườn... tạo điều kiện cho trên 80% số hộ dân
thường xuyên tiếp cận với các thông tin, tiến bộ
kỹ thuật mới áp dụng vào sản xuất.
Các số liệu thống kê cho thấy, sản lượng lúa luôn
luôn tăng trưởng năm sau cao hơn năm trước. Sản
lượng lúa toàn Tỉnh đạt 3.443.882 tấn (năm 2010),
tăng lên 4.181.887 tấn (năm 2015). Năng suất bình
quân hàng năm trong thời kỳ 2010 – 2015 tăng từ
5,48 tấn/ha lên 6,14 tấn/ha, bình quân đạt 5,92 tấn/
ha. Năng suất cao nhất là vụ Đông – Xuân, bình
quân trong 5 năm là 7,01 tấn/ha. Vụ Mùa có năng
suất thấp nhất 4,18 tấn/ha.
Thực trạng phát triển ngành lúa, gạo Kiên Giang
Đến nay toàn tỉnh Kiên Giang thực hiện cơ giới
hóa khâu làm đất đạt 97% diện tích đất sản xuất
lúa, 30% diện tích được gieo sạ bằng công cụ cải
tiến (sạ theo hàng), 100% khâu tuốt hạt, 90% diện
tích được bơm tưới bằng điện và động lực, các
khâu chăm sóc, nuôi dưỡng; chương trình cánh
đồng mẫu lớn được triển khai trên diện rộng, quá
trình sản xuất được tiến hành theo các tiêu chuẩn
của VietGAP và GlobalG.A.P, từ đó tạo ra chất
lượng gạo đáp ứng tiêu chuẩn xuất khẩu đến các
thị trường khó tính.
Những nămqua các cơ quan chức năng địa phương
(Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Trung
tâm Khuyến nông Tỉnh, Trung tâm Giống nông lâm
nghiệp, Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
các Trung tâm Khuyến nông huyện) và người dân đã
tích cực triển khai các giống lúa ngắn ngày có năng
suất, chất lượng cao vào sản xuất, thay thế các giống
lúa trước đây năng suất thấp, thời gian sinh trưởng
dài. Các giống thường được sử dụng nhiều, đó là gồm:
OM 2517, OM 3536, OM 4900, OM 5451, OM 5954,OM
6162, OM 6976, OM 7347, OM 8923, ST5... Chất lượng
giống rất tốt, phù hợp với cơ cấu mùa vụ và điều kiện
tự nhiên từng vùng, phù hợp với yêu cầu giống chất
lượng cao, phục vụ cho sản xuất hàng hóa, xuất khẩu.
Các giống này có thời gian sinh trưởng 90 - 100 ngày,
năng suất đạt 4,5 – 5,9 tấn/ha.
Tỉnh đã coi trọng phát triển nguồn lực lao
động trong lĩnh vực nông nghiệp: Tổ chức đào
tạo nghề tại các trung tâm, cơ sở dạy nghề trong
tỉnh, tại các doanh nghiệp (DN) trung bình mỗi
GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂNNGÀNH SẢN XUẤT LÚA, GẠO
TỈNHKIÊNGIANG
ThS. DƯƠNG VĂN TOÀN
- Cao đẳng Kinh tế - Kỹ thuật Kiên Giang
Với lợi thế về điều kiện tự nhiên, ngành trồng trọt của tỉnh Kiên Giang chiếmmột vị trí hết sức quan trọng
trong phát triển kinh tế so với các địa phương khác trong cả nước. Tính trung bình trong giai đoạn 2010 –
2015, giá trị của trồng trọt chiếm 81,92% tổng giá trị sản xuất ngành nông nghiệp, trong đó, sản xuất lúa
gạo chiếmmột tỷ trọng chủ yếu. So sánh với các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long, Kiên Giang luôn có diện
tích trồng lúa lớn nhất (753.625 ha). Làm thế nào để phát huy hiệu quả những lợi thế, phát triển kinh tế
nông nghiệp Kiên Giang là vấn đề đặt ra...
•
Từ khóa: Nông nghiệp, lúa gạo, phát triển, năng suất, thị trường.