68
KINH TẾ - TÀI CHÍNH ĐỊA PHƯƠNG
tỉnh Kiên Giang
nói chung và sản
xuất lúa gạo nói
riêng.
Thứ hai,
gắn
chặt chẽ sản xuất
lúa gạo với các
sản phẩm chủ lực của địa phương, phù hợp với lợi
thế của địa phương và với nhu cầu của thị trường.
Tiếp tục thực hiện chương trình cánh đồng mẫu
lớn giai đoạn 2 (2016 – 2020): Cánh đồng lớn đáp
ứng vùng nguyên liệu và ứng phó với biến đổi khí
hậu. Tập trung vào “1 phải, 5 giảm” là phải sử dụng
các giống lúa xác nhận cấp 2 hoặc cấp 2; giảm lượng
giống, phân hóa học, thuốc bảo vệ thực vật, nước tưới,
thất thoát trong sản xuất và thu hoạch. Phát triển các
hình thức bảo hiểm phù hợp trong nông nghiệp.
Thứ ba,
đổi mới cơ bản phương thức tổ chức kinh
doanh nông sản.
Trước hết là kinh doanh lúa gạo, bảo đảm phân
phối lợi ích hợp lý trong từng công đoạn từ sản xuất
đến tiêu dùng. Tiếp tục đổi mới, xây dựng mô hình
tổ chức để phát triển kinh tế hợp tác phù hợp với cơ
chế thị trường. Kiểm soát chặt chẽ việc chuyển đất
nông nghiệp, nhất là đất trồng lúa sang sử dụng vào
mục đích khác đi đôi với việc bảo đảm lợi ích của
người trồng lúa và địa phương trồng lúa.
Thứ tư,
tăng cường đầu tư nâng cấp hệ thống thủy
lợi, đẩy mạnh trang bị cơ giới hóa đồng bộ từ làm
đất tới thu hoạch và bảo quản, phát triển bảo hiểm
rủi ro đối với sản xuất lúa gạo của Tỉnh; Ứng dụng
tiến bộ khoa học công nghệ để phát triển theo chiều sâu
nhằm tăng năng suất chất lượng và giảm giá thành sản
xuất. Đẩy nhanh áp dụng tiến bộ khoa học và công nghệ
hiện đại trong sản xuất, chế biến, bảo quản; ưu tiên ứng
dụng công nghệ sinh học để tạo nhiều giống cây trồng,
vật nuôi và quy trình sản xuất đạt năng suất, chất lượng
và hiệu quả cao, tăng nhanh giá trị gia tăng trênmột đơn
vị đất canh tác. Bên cạnh đó, cần hỗ trợ phát triển các khu
nông nghiệp công nghệ cao; Đẩy mạnh chăn nuôi theo
phương thức công nghiệp, bán công nghiệp, bảo đảm
chất lượng và an toàn dịch bệnh; Phát triển hệ thống kho
chứa nông sản, góp phần điều tiết cung cầu.
Tài liệu tham khảo:
1. Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X (2008), Nghị quyết số 26 - NQ/T.Ư
về nông nghiệp, nông dân, nông thôn;
2. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (2004), Tăng cường năng lực hội nhập
quốc tế cho ngành Nông nghiệp và phát triển nông thôn - Lộ trình hội nhập kinh
tế quốc tế của ngành Nông nghiệp Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia;
3. Cục Thống kê tỉnh Kiên Giang (2010, 2015), Niên giám thống kê tỉnh Kiên
Giang năm 2010, 2015.
Những hạn chế trong sản xuất lúa gạo
của tỉnh Kiên Giang
- Chất lượng gạo xuất khẩu còn hạn chế: Hầu hết
các loại gạo chỉ đáp ứng nhu cầu thị trường có chất
lượng trung bình và thấp, dẫn đến giá trị xuất khẩu
thấp, trong khi lượng gạo xuất khẩu rất cao. Nông
dân ở nhiều nơi trong Tỉnh vẫn tiếp tục gieo trồng các
giống lúa chất lượng thấp, điển hình là giống IR50404.
- Chưa xây dựng được thương hiệu mạnh, đặc
trưng của địa phương: Kiên Giang có nhiều tiềm
năng về sản xuất nông nghiệp, song thương hiệu
nông sản lại hầu như chưa có.
- Công tác phòng ngừa những rủi ro cho sản xuất
nông nghiệp thông qua bảo hiểm nông nghiệp chưa
được quan tâm. Vì vậy, khi có rủi ro xảy ra, việc
khôi phục sản xuất gặp rất nhiều khó khăn.
- Chưa hình thành thị trường nông sản theo hướng
hội nhập quốc tế, đã gây ra những thiệt thòi nhất
định cho nông dân và bất tiện cho doanh nghiệp.
Nông dân vẫn tự tìm đầu ra cho nông sản là chính.
Nguyên nhân này đã khiến cho ngành Nông nghiệp
dễ gặp rủi ro hơn các ngành khác, một bộ phận nhân
dân không mặn mà đầu tư sản xuất nông nghiệp.
- Kết cấu hạ tầng, cơ sở vật chất kỹ thuật chưa
đáp ứng được yêu cầu phát triển, kinh tế - xã hội
nông thôn. Đời sống một bộ phận nông dân còn
nhiều khó khăn, nhất là đồng bào dân tộc không
đất sản xuất, thiếu việc làm.
- Một số chính sách tín dụng phục vụ phát triển
nông nghiệp, nông thôn còn vướng mắc về thủ tục
cho vay, nên việc tiếp cận các nguồn vốn vay của
nông dân còn gặp nhiều khó khăn.
Giải pháp phát triển lúa gạo ở Kiên Giang
Thứ nhất,
đẩy mạnh việc tuyên truyền về hội
nhập kinh tế quốc tế.
Tăng cường nhận thức của cán bộ các cấp, nông
dân về những tác động của hội nhập kinh tế quốc
tế đối với nông nghiệp, nông thôn, nông dân. Triển
khai thực hiện tốt chủ trương hội nhập kinh tế quốc
tế trên cơ sở phát huy tối đa nội lực, xem đây là
yếu tố cơ bản; đồng thời, tích cực tranh thủ nguồn
lực bên ngoài, để thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu và
nâng cao khả năng cạnh tranh của nền nông nghiệp
THỐNG KÊ SẢN XUẤT LÚA TỈNH KIÊN GIANG GIAI ĐOẠN 2001 - 2015
2010
2011
2012
2013
2014
2015
Tổng diện tích lúa cả năm (ha)
628.306 632.163 655.085 675.819 678.056 681.284
Tổng sản lượng lúa cả năm (tấn)
3.443.882 3.693.303 3.941.451 4.013.201 4.148.735 4.181.887
Năng suất lúa bình quân (tấn/ha)
5,48
5,84
6,02
5,94
6,12
6,14
Nguồn: Tổng hợp niên giám thống kê tỉnh Kiên Giang