K1 T3 - page 35

TÀI CHÍNH -
Tháng 3/2017
37
hết vào giá trị doanh nghiệp) nguồn này có khoảng 5,4
triệu tỷ đồng. Nếu thoái toàn bộ vốn nhà nước tại các
doanh nghiệp thuộc các ngành không cần Nhà nước
sở hữu hơn 50% vốn, thoái vốn nhà nước xuống mức
sàn quy định đối với các ngành mà Nhà nước sắp xếp,
cơ cấu lại vốn đầu tư, Việt Nam sẽ có 1 lượng vốn lớn
phục vụ cho việc đầu tư phát triển CSHT. Giả định
trong 15 năm tới, tức là đến 2030, toàn bộ nguồn vốn
này được thoái, chúng ta sẽ có một nguồn vốn mồi
đủ lớn. Với nguyên lý đầu tư 1:3 (đầu tư nhà nước chỉ
chiếm 1/3), sẽ hấp thụ được 10 triệu tỷ đồng tiền vốn
từ các khu vực ngoài nhà nước, tổng thể có 15 triệu tỷ
đồng. Lượng vốn này sẽ cho phép giải quyết được các
nhu cầu cần thiết về đầu tư CSHT.
Hai là, nguồn vốn từ huy động nguồn lực đất đai
bất động sản. Đây là một nguồn lực khá tiềm năng.
Nhà nước có thể đứng ra đền bù, giải phóng mặt
bằng, thu hồi đất để phát triển CSHT. Đồng thời, Nhà
nước đền bù, giải tỏa cả đất hành lang của công trình
hạ tầng. Khi đã có đất, Nhà nước đứng ra đấu thầu.
Các nhà thầu sẽ được phép xây dựng công trình theo
quy hoạch đã được phê duyệt. Với nguồn vốn thu
được, Nhà nước đầu tư CSHT và tiếp tục giải phóng
mặt bằng và thu hồi đất. Điều kiện thành công là
nguồn thu từ đất chỉ dùng để tiếp tục giải phóng mặt
bằng (nếu hòa chung vào tổng thể ngân sách, đối với
một nền kinh tế có ngân sách thiếu hụt, nguồn tiền sẽ
dần cạn kiệt). Đồng thời, để có thể thực hiện hiệu quả
liệu pháp này, cần loại trừ lợi ích nhóm.
Bên cạnh đó, cách thức truyền thống là đổi đất
lấy hạ tầng. Việc tạo ra ngân hàng quỹ đất (đất công
thổ) để tạo vốn phát triển CSHT là một giải pháp cần
đưa vào danh mục giải pháp. Đồng hành với việc
huy động vốn từ đất đai để phát triển CSHT là việc
chuyển các nguồn thu từ giao cho thuế đất sang đấu
giá quyền sử dụng đất và đánh thuế tài sản. Việc
đánh thuế tài sản đất đai bất động sản là việc nhiều
quốc gia đã làm. Nếu nguồn thuế này được triển
khai, một lượng ngân sách khá lớn sẽ được bổ sung
cho cân đối thu chi. Từ nguồn ngân sách này, một
phần sẽ bổ sung cho đầu tư phát triển CSHT.
Ba là, nguồn vốn từ hợp tác công tư (PPP), nhất là
từ tư nhân trong nước. Đây là nguồn chủ yếu trong
giai đoạn 2016-2020 và tầm nhìn đến năm 2030. Việc
thu hút vốn ngoài nhà nước vào đầu tư CSHT những
năm qua chủ yếu dựa vào hình thức BOT, BTO… Từ
khi Nghị định 15/2015/NĐ-CP ngày 14/2/2015 về PPP
được ban hành và đưa vào thực hiện, các hình thức
đầu tư tư nhân được huy động nhiều hơn: (i) Nguồn
đầu tư các dự án BOT, BTO, BC… tiếp tục được huy
động. (ii) Nhà nước có thể hợp đồng cho khu vực tư
nhân đấu thầu, tham gia khai thác CSHT. Đây là hình
thức Nhà nước bán quyền khai thác công trình hạ
tầng với giá được chiết khấu so với giá trị công trình.
Nhà thầu sẽ lấy lại chi phí bằng cách khai thác và thu
phí. Với nguồn vốn có được, Nhà nước sẽ tiếp tục xây
dựng công trình hạ tầng khác.
Việc huy động PPP cần vận dụng cả hình thức
huy động vốn cho giai đoạn đầu tư ban đầu, vừa vận
dụng hình thức cho thuê khai thác quyền sử dụng
CSHT đã hoàn thành giai đoạn xây dựng. Nhà nước
sẽ cho thuê công trình, chiết khấu (khoảng 30% - thay
cho phần đóng góp của phía nhà nước cho các ông
trình đầu tư mới) cho các chủ đầu tư tư nhân quản
lý khai thác. Với nguồn tiền có được Nhà nước sẽ
dùng vào việc đầu tư công trình khác. Với cơ chế này,
nguồn vốn của Nhà nước sẽ được tăng lên phục vụ
cho nguồn vốn đầu tư CSHT.
Thứ ba,
cần nghiên cứu ban hành Luật Đầu tư phát
triển CSHT để làm cơ sở cho việc thu hút các nguồn
vốn mới vào đầu tư CSHT. Luật này bao gồm các nội
hàm về danh mục đầu tư CSHT, các chính sách thu
hút vốn đầu tư phát triển CSHT; các cơ chế, chính sách
đặc thù trong giai đoạn đến năm 2030; trách nhiệm,
quyền hạn của các bên liên quan trong việc hoàn thiện
thể chế đất tư phát triển CSHT, quy hoạch phát triển
CSHT, triển khai đầu tư phát triển CSHT…Một số nội
dung vượt trội cần được đưa vào trong Luật này làm
cơ sở cho các cơ chế, chính sách đặc thù về vấn đề vốn
cho đầu tư phát triển CSHT trong giai đoạn hiện nay
và tầm nhìn đến năm 2030 để có thể vượt qua bẫy thu
nhập trung bình. Hơn nữa, việc kiểm soát thu phí phải
được đưa vào nhưmột nội dung quan trọng trong quá
trình thu hút khu vực tư nhân tham gia vào phát triển
CSHT. Đây là một trong những điều kiện tiên quyết
cho việc đảm bảo phát triển hạ tầng đồng hành với
phát triển kinh tế.
Tài liệu tham khảo
1. Nghị quyết số 07-NQ/TW của Bộ Chính trị về chủ trương, giải pháp cơ cấu lại
ngân sách nhà nước, quản lý nợ công;
2. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2016). Những giải pháp, chính sách để nâng cao chất
lượng tăng trưởng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Đề án Trình Hội
nghị Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ 4 Khóa XII. Hà Nội, tháng
10/2016;
3. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2016), Kế hoạch tái cơ cấu nền kinh tế giai đoạn 2016-
2020, Đề án trình Quốc hội Khóa 14, kỳ họp thứ 2. Hà Nội, 2016;
4. Diễn đàn Đối tác Phát triển Việt Nam (VPDF), (2015), Cấp vốn Đầu tư CSHT cho
Việt Nam 2016-2020, Hà Nội, tháng 11/2015;
5. Lê Viết Thái (2015), Hình thành thị trường đầu tưphát triển kết cấuhạ tầng: Nhìn
từ góc độ thể chế, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương. Hà Nội, 2015;
6. Phạm Thiên Hoàng (2016), Chính sách huy động nguồn lực tài chính cho phát
triển CSHT hướng đến năm 2020, Đề tài cấp Bộ, Viện Nghiên cứu quản lý kinh
tế Trung ương. Hà Nội, 2016.
1...,25,26,27,28,29,30,31,32,33,34 36,37,38,39,40,41,42,43,44,45,...94
Powered by FlippingBook