K1 T3 - page 37

TÀI CHÍNH -
Tháng 3/2017
39
nước có khoảng trên 500 nghìn DN, chiếm gần 90%
số DN của cả nước. Trong giai đoạn 2006-2015, so
với khu vực kinh tế nhà nước và khu vực có vốn
đầu tư nước ngoài, khu vực KTTN đóng góp hơn
40% GDP cả nước, 30% giá trị tổng sản lượng công
nghiệp, gần 80% tổng mức lưu chuyển hàng hóa
bán lẻ và dịch vụ, 64% tổng lượng hàng hóa và
100% giá trị sản lượng hàng hóa vận chuyển. Đặc
biệt, khu vực KTTN thu hút khoảng 51% lực lượng
lao động cả nước và tạo khoảng 1,2 triệu việc làm
cho người lao động mỗi năm... Điều đó chứng
tỏ vai trò quan trọng, không thể thiếu của KTTN
trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN
ở nước ta hiện nay. Vì vậy, KTTN không những
được xác định là “một trong những động lực của
nền kinh tế” như đã khẳng định tại Nghị quyết Đại
hội XI của Đảng, mà còn là động lực của nền kinh
tế nước ta hiện nay.
Nhìn chung, khu vực KTTN đã và đang có vai
trò ngày càng quan trọng đối với sự phát triển
kinh tế xã hội trên tất cả các ngành, lĩnh vực sản
xuất kinh doanh, kinh tế và văn hóa trong nước
và quốc tế. Tuy nhiên, khu vực KTTN vẫn còn tồn
tại nhiều yếu kém, thách thức trong quá trình phát
triển. Trong đó, rào cản lớn nhất là trong lý luận
và quan điểm về vai trò của khu vực KTTN. Mặc
dù, khu vực KTTN được coi là bộ phận cấu thành
quan trọng của nền kinh tế quốc dân, là một trong
những động lực của nền kinh tế, nhưng vẫn còn
vấn đề trong lý luận và quan điểm về vai trò của
các khu vực kinh tế sở hữu, giữa vai trò động lực
của khu vực KTTN và vai trò chủ đạo của khu vực
KTTN khiến hệ thống cơ chế chính sách tạo lập môi
trường kinh doanh được hoạch định chưa đồng bộ,
triển khai thiếu nhất quán, tình trạng phân biệt đối
xử giữa các DN thuộc các khu vực kinh tế sở hữu
khác nhau vẫn còn tồn tại, trong đó DN nhà nước
được dành nhiều ưu đãi.
Rào cản khác là hệ thống thể chế chính sách chưa
đồng bộ, nhất là chính sách tín dụng, chính sách đất
đai và đào tạo nguồn nhân lực. Về chính sách tín
dụng, những hạn chế trong tiếp cận các khoản vay
tín dụng đối với các DN khu vực KTTN chủ yếu
liên quan đến sự sẵn sàng cho vay của ngân hàng
đối với DN và khả năng các DN khu vực KTTN
đáp ứng được những yêu cầu, thủ tục vay vốn khác
nhau của các ngân hàng. Vẫn còn tồn tại dai dẳng
sự ưu tiên từ các ngân hàng thương mại nhà nước
dành cho các DN nhà nước vay vốn do những mối
quan hệ đã có từ lâu.
Về chính sách đất đai, KTTN vẫn khó khăn trong
tiếp cận mặt bằng do một số địa phương chưa có
quy hoạch ổn định nên khó tìm được địa điểm thuê
phù hợp, giá thuê đất thường cao, trường hợp sử
dụng đất tự có, đất mua lại thường gặp khó khăn,
thiệt thòi trong việc chuyển đổi mục đích sử dụng
đất. Về chính sách hỗ trợ đào tạo nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực, hệ thống đào tạo nghề lạc
hậu, chương trình đào tạo được thiết kế dựa theo
năng lực của trường chứ không theo nhu cầu xã
hội, nặng về giải ngân ngân sách nhà nước để hoàn
thành kế hoạch, chạy theo số lượng chứ không coi
trọng chất lượng, nên không đáp ứng được yêu cầu
phát triển của DN cả về ngành nghề và chất lượng,
khiến kinh phí ngân sách bị sử dụng lãng phí, DN
tốn chi phí phải đào tạo lại.
Bên cạnh đó, những trở ngại xuất phát từ tồn
tại, yếu kém trong nội tại DN khu vực tư nhân. Các
DN khu vực KTTN nói chung còn thiếu chiến lược
và kế hoạch đầu tư phát triển dài hạn một cách hợp
lý, thường tìm kiếm cơ hội đầu tư và lợi ích ngắn
hạn. Tính liên kết giữa các DN khu vực KTTN còn
yếu, tỷ lệ DN tư nhân có quan hệ làm ăn với các
DN FDI và DN nhà nước rất thấp, tương ứng chỉ
có 6,9% và 15%. Các DN tư nhân còn yếu kém về
quản trị công ty, trình độ công nghệ và hạn chế về
chất lượng nguồn nhân lực và khả năng tiếp cận thị
trường... Chính những rào cản nêu trên đã hạn chế
rất lớn đến sự phát triển của khu vực kinh tế này.
Đề xuất một số giải pháp
Để thúc đẩy KTTN phát triển trong điều kiện
nước ta đã và đang hội nhập ngày càng sâu rộng
với khu vực và quốc tế, Đại hội XII của Đảng chủ
trương: Hoàn thiện cơ chế, chính sách khuyến
khích, tạo thuận lợi phát triển mạnh KTTN ở hầu
hết các ngành và lĩnh vực kinh tế; chú trọng hoàn
thiện chính sách hỗ trợ phát triển DN nhỏ và vừa,
DN khởi nghiệp; khuyến khích hình thành các tập
đoàn KTTN đa sở hữu và tư nhân góp vốn vào các
tập đoàn kinh tế nhà nước. Điều đáng chú ý là,
Đảng ta chủ trương khuyến khích, phát triển mạnh
KTTN ở “hầu hết các ngành và lĩnh vực kinh tế”, hỗ
trợ phát triển “DN khởi nghiệp”, hình thành các tập
Trong giai đoạn 2006-2015, so với khu vực kinh
tế Nhà nước và khu vực có vốn đầu tư nước
ngoài, khu vực kinh tế tư nhân đóng góp hơn
40% GDP cả nước, 30% giá trị tổng sản lượng
công nghiệp, gần 80% tổng mức lưu chuyển
hàng hóa bán lẻ và dịch vụ, 64% tổng lượng
hàng hóa và 100% giá trị sản lượng hàng hóa
vận chuyển.
1...,27,28,29,30,31,32,33,34,35,36 38,39,40,41,42,43,44,45,46,47,...94
Powered by FlippingBook