K2 T4 - page 93

TÀI CHÍNH -
Tháng 4/2017
92
có nhiều DN như ở Hải Phòng. Tuy nhiên, với
nhiều lý do khác nhau, thị trường lao động tại các
DNTN ở Hải Phòng đang có những bất ổn. Minh
chứng là toàn Thành phố hiện có khoảng gần 2 vạn
người lao động thất nghiệp, trong khi thực tế vẫn
còn nhiều DN không tuyển được lao động, nhất là
những lao động có tay nghề.
Ba là,
khả năng tiếp cận vốn của DNTN trên địa
bàn Thành phố còn hạn chế. Chẳng hạn, hệ thống
ngân hàng thường đặt ra những điều kiện ngặt
nghèo hơn đối với DNTN khi tiếp cận với nguồn
vốn của ngân hàng, hoặc Nhà nước vẫn chưa có
một chính sách cụ thể về giải quyết mặt bằng các
cơ sở sản xuất kinh doanh.
Bốn là,
DNTN ở Hải Phòng hoạt động vẫn còn
độc lập, riêng rẻ, tính liên kết hợp tác trong sản xuất
kinh doanh còn thấp nên khó tạo được sức mạnh
chung trên cơ sở phát huy lợi thế của từng DN.
Năm là,
quyền lợi của người lao động trong các
khu vực kinh tế tư nhân chưa được các chủ DN
thực hiện nghiêm túc. Chính phủ cũng quy định
các DN phải nộp 15% quỹ lương vào Quỹ Bảo hiểm
Xã hội cho người lao động. Tuy nhiên, việc thực
hiện chính sách bảo hiểm xã hội đối với người lao
động tại các DNTN còn không ít những thiếu sót.
Giải pháp nhằm giải quyết việc làm
cho người lao động
Để khắc phục những tồn tại, hạn chế trên trong
giải quyết việc làm tại DNTN ở TP. Hải Phòng, cần
triển khai thực hiện một số giải pháp sau:
Một là,
hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo điều
kiện cho sự phát triển của DNTN; Nghiên cứu sửa
đổi, bổ sung một số quy định chưa thống nhất giữa
các văn bản pháp luật đã ban hành bảo đảm thể hiện
đồng bộ, nhất quán các quan điểm của Đảng về phát
triển kinh tế tư nhân; Tiếp tục tháo gỡ các khó khăn,
vướng mắc trong luật pháp, thủ tục hành chính.
Hai là,
các cơ quan hữu quan tại Hải Phòng cần
làm tốt công tác phổ biến, tuyên truyền quan điểm,
đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước đối với
việc phát triển DNTN với người dân. Biểu dương
kịp thời những doanh nhân, đơn vị sản xuất, kinh
doanh có hiệu quả, đúng pháp luật, có đóng góp
tích cực vào phát triển kinh tế - xã hội của Thành
phố, bảo đảm lợi ích người lao động; tạo điều kiện
cho tổ chức đảng, các đoàn thể nhân dân phát huy
vai trò của mình trong DN.
Ba là,
hoàn thiện các chính sách ưu tiên phát
triển DNTN, Thành phố nên tập trung sửa đổi, bổ
sung một số chính sách, bảo đảm sự bình đẳng giữa
các thành phần kinh tế về cơ hội và khả năng lựa
chọn các điều kiện để pháp triển; tiếp tục tháo gỡ
các khó khăn, vướng mắc, sửa đổi những quy định
chưa phù hợp với trình độ, quy mô kinh doanh để
kinh tế tư nhân có thể thụ hưởng những chính sách
ưu đãi của Nhà nước đối với các ngành, vùng, các
sản phẩm và dịch vụ cần ưu tiên; chú trọng tạo
điều kiện, hỗ trợ những DN nhỏ và vừa.
Bốn là,
chú trọng công tác đào tạo nguồn nhân
lực cho khu vực kinh tế tư nhân. Mặc dù nguồn
nhân lực trên địa bàn Thành phố tương đối dồi
dào, nhưng lại không được đào tạo một cách bài
bản (từ người chủ DN cho đến người công nhân kỹ
thuật). Để khắc phục tình trạng này cần đẩy mạnh
đào tạo nguồn nhân lực cho các DN thuộc DNTN.
Năm là,
thực hiện chính sách khuyến khích phát
triển DN nhỏ và vừa. Ngoài việc thực hiện những
giải pháp phát triển kinh tế tư nhân, Tỉnh cần có
các chính sách khuyến khích phát triển DNTN để
tạo việc làm cho người lao động như: Củng cố hệ
thống các cơ quan hỗ trợ DN nhỏ và vừa ở Thành
phố; hỗ trợ chính quyền các quận, huyện nâng cao
năng lực hoạch định chính sách phát triển DNTN;
Đẩy mạnh phát triển làng nghề truyền thống.
Sáu là,
ưu tiên những ngành có lợi thế để phát
triển và sử dụng nhiều lao động tạo ra việc làm.
Để giúp DNTN trở nên năng động, phát triển,
tạo ra nhiều việc làm cần phải ưu tiên lựa chọn
phát triển trên một số ngành là thế mạnh của Hải
Phòng. Nâng cao tính cạnh tranh của các ngành
hàng thay vì đặt mục tiêu cụ thể cho từng sản
phẩm riêng lẻ.
Tài liệu tham khảo:
1. UBND TP. Hải Phòng (2016), Báo cáo số 442/BC-UBND về việc rà soát, cập
nhật thông tin về đăng ký DN trên địa bàn Thành phố giai đoạn 2011 -
2016, ngày 25/12/2016;
2. Sở Kế hoạch và Đầu tư (2016), Báo cáo số 04/BC-KHĐT về tình hình phát
triển DN trong 5 năm (2012 - 2016), ngày 16/12/2016;
3. Sở Lao động Thương binh và Xã hội TP. Hải Phòng (2016), Báo cáo số 06/
BC-LĐTB&XH về tổng kết kết quả thực hiện Đề án giải quyết việc làm cho
người lao động giai đoạn 2011 – 2015.
Theo Báo cáo của Sở Kế hoạch và Đầu tư Hải
Phòng về tình hình phát triển doanh nghiệp 5
năm (2012-2016), năm 2012 số doanh nghiệp
có số lao động từ 5 - 10 người là 10.225 doanh
nghiệp, chiếm 72,11% tổng số doanh nghiệp
tư nhân tại Thành phố; năm 2014 là 8.890
doanh nghiệp, chiếm 72,09%; năm 2015 là
6.792 doanh nghiệp chiếm 71,68% và năm
2016 là 7.218 doanh nghiệp chiếm 71,49%.
1...,83,84,85,86,87,88,89,90,91,92 94,95,96,97,98,99,100,101,102,103,...118
Powered by FlippingBook