Tạp chí Tài chính kỳ 1 số tháng 10 - page 45

TÀI CHÍNH -
Tháng 10/2015
47
Những điểm nhấn thu hút FDI của Thái Lan
Thứ nhất,
tạo môi trường pháp lý đồng bộ, thông
thoáng, đảm bảo quyền lợi cho nhà đầu tư (NĐT).
Thái Lan là nước sớm nhận ra giá trị của nguồn
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) trong việc
phát triển kinh tế đất nước. Do đó, từ những năm
1950, Chính phủ Thái Lan đã theo đuổi chính sách
công nghiệp hóa dẫn dắt bởi khu vực tư nhân và mở
cửa đối với FDI. Hiện thực hóa chủ trương này, năm
1959, Ủy ban Đầu tư Thái Lan đã được thành lập để
quản lý các chương trình xúc tiến đầu tư theo Luật
Xúc tiến đầu tư của Chính phủ. Năm 1960, Luật Đầu
tư được ban hành.
Năm 1972, Chính phủ Thái Lan ban hành Luật
Kinh doanh nước ngoài để khuyến khích các NĐT
nước ngoài vào nước này đầu tư vào ngành công
nghiệp xuất khẩu. Luật Kinh doanh nước ngoài cho
phép người nước ngoài được tự do kinh doanh buôn
bán các lĩnh vực, ngành nghề không nằm trong 68
danh mục bị hạn chế và cấm đầu tư.
Để tiếp tục khuyến khích, “trải thảm đỏ’’ cho
các NĐT nước ngoài đến Thái Lan đầu tư, làm
ăn, năm 1992, Chính phủ Thái Lan đã ban hành
Luật Khuyến khích đầu tư. Tuy nhiên, trong thực
tế triển khai Luật này đã nảy sinh một số hạn chế,
bất cập đối với NĐT nước ngoài nhất là về chính
sách thu hút vốn FDI vẫn còn “bó”. Khắc phục
những bất cập, hạn chế, năm 1997, Chính phủ nước
này đã quyết định sửa đổi, bổ sung Luật Khuyến
khích đầu tư theo hướng tạo điều kiện thuận lợi
và thông thoáng nhất cho các NĐT nước ngoài đến
nước này “rót” vốn đầu tư. Mặc dù trong khu vực
kinh tế châu Á đang diễn ra khủng hoảng tài chính,
tiền tệ nhưng Chính phủ Thái Lan vẫn quyết tâm
theo đuổi chính sách “trọng tư” (chú trọng khuyến
khích hoạt động đầu tư vốn FDI) nhằm đảm bảo
quyền lợi cho NĐT.
Trước bối cảnh tình hình mới sau cuộc khủng
hoảng tài chính – tiền tệ châu Á năm 1997, tháng
10/1998, Chính phủ Thái Lan đã quyết định sửa đổi,
bổ sung Luật Kinh doanh nước ngoài năm 1972.
Theo đó, Luật Kinh doanh nước ngoài năm 1998 có
sửa đổi một số nội dung: Thiết lập nguyên tắc tự do
kinh doanh cho người nước ngoài, thu hẹp lĩnh vực
cấm và hạn chế đầu tư từ 68 lĩnh vực theo Luật Kinh
doanh nước ngoài năm 1972 xuống còn 38 lĩnh vực;
nới lỏng các hạn chế về tỷ lệ sở hữu vốn nước ngoài;
chấp nhận cho NĐT nước ngoài được quyền mua lại
toàn bộ cổ phần của các ngân hàng Thái Lan trong
vòng 10 năm kể từ năm 1997…
Điểm nổi bật, tại Thái Lan, các NĐT nước ngoài
được quyền vay vốn với điều kiện tương tự như
các NĐT trong nước. Chính sách này đã tạo được
sự bình đẳng cho tất cả các công ty kinh doanh
trong nước, không phân biệt đối xử giữa NĐT
trong nước và nước ngoài. Điều này tạo điều kiện
cho NĐT nước ngoài được phép vay vốn để mở
rộng phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh tại
Thái Lan.
Bên cạnh đó, Ủy ban Đầu tư Thái Lan đã tiến
hành phân cấp, phân quyền, nâng cao quyền hạn
nhiều hơn cho các tỉnh, thành phố, khu tự trị trong
quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp FDI. Nhà
THÁILAN:
“ĐIỂMSÁNG”THUHÚT ĐẦUTƯTRỰC TIẾPNƯỚC NGOÀI
TRẦN NAM TRUNG
- Đại học Kinh tế - Đại học Quốc gia Hà Nội
Nhận thức được vai trò quan trọng của vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với sự phát
triển kinh tế Thái Lan, Chính phủ nước này đã xây dựng được hệ thống chính sách ưu đãi
dành cho các nhà đầu tư “ngoại” nhằm thu hút họ đầu tư vào các dự án công nghiệp trọng
điểm ở nước này. Nhờ biết tận dụng dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, nền kinh tế Thái
Lan đã có những bước phát triển nhanh, ổn định trong khu vực Đông Nam Á.
1...,35,36,37,38,39,40,41,42,43,44 46,47,48,49,50,51,52,53,54,55,...58
Powered by FlippingBook