K1 T3 - page 90

92
DIỄN ĐÀN KHOA HỌC
khi đó, nếu so sánh với các nước trong khu vực, dự trữ
ngoại hối của Việt Nam chỉ bằng 1/2 của Indonesia, 1/3
của Singapore và 1/8 của Trung Quốc.
Bên cạnh mối quan ngại đó, tín hiệu tích cực của sự
gia tăng trong quy mô dự trữ ngoại hối của Việt Nam
đã duy trì lòng tin về khả năng đảm bảo thanh toán
nghĩa vụ nợ nước ngoài của nền kinh tế, khả năng hỗ
trợ giá trị của VND, khả năng đảm bảo tài chính của
quốc gia, góp phần thu hút đầu tư trực tiếp và đầu tư
gián tiếp nước ngoài…
Tác động của sai lệch tỷ giá
tới dự trữ ngoại hối củaViệt Nam
Hình 1 cho thấy, mấu chốt của vấn đề là nội tệ định
giá thực thấp đã khuyến khích xuất khẩu, kéo theomức
tăng dự trữ ngoại hối. Dĩ nhiên là còn có nhiều yếu tố
ảnh hưởng tới dự trữ ngoại hối nhưng có thể khẳng
định rằng, ở đây có sự tương quan thuận chiều ở các
giai đoạn từ quý II/2011 trở về đây. Mức tăng dự trữ
ngoại hối lớn nhất vào quý I/2014 lên tới 30,36%. Ởmột
số thời điểm tình hình bất ổn của kinh tế thế giới tác
động đến kinh tế trong nước, tuy nội tệ định giá thực
thấp nhưng NHNN cũng phải can thiệp vào thị trường
ngoại hối, nên ít nhiều quy mô dự trữ ngoại hối cũng bị
giảm sút, nhất là hai năm 2009 và 2010.
Đôi khi, sai lệch tỷ giá lại có ảnh hưởng không tốt tới
mức tăng dự trữ do chi phí can thiệp trung hòa lớn của
Ngân hàng Trung ương. Ví dụ: Giai đoạn 2006 - 2008,
lượng kiều hối và dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài
ồ ạt chảy vào Việt Nam làm nội tệ lên giá và lạm phát
tăng. Như vậy, trong vai trò quản lý Ngân hàng Trung
ương có thể thực thi 2 giải pháp sau: Cho phép tỷ giá
giảm; Can thiệp để ngăn chặn tỷ giá giảm.
Thực tế hiện nay cũng cho thấy, NHNN Việt Nam
đã lựa chọn cách thứ hai, can thiệp để ngăn ngừa tỷ
giá giảm, tránh cho tỷ giá biến động nhiều, gây hậu
quả là mức dự trữ ngoại hối sụt giảm, lạm phát tăng...
Với biện pháp điều hành tỷ giá linh hoạt, phát
hành trái phiếu, tăng tỷ lệ dự trữ… NHNN đã góp
phần ổn định mối quan hệ giữa tăng cung tiền với
tăng lạmphát. Tuy nhiên, cả lý thuyết và thực nghiệm
đều chỉ ra rằng, các biện pháp trên chỉ mang tính
ngắn hạn. Bởi vì, với lượng trái phiếu NHNN phát
hành ra nhiều hơn khả năng hấp thụ của thị trường
tài chính trong nước thì buộc NHNN phải tăng lãi
suất của các trái phiếu. Khi đó, lãi suất cần thiết để
làm cho trái phiếu và các công cụ nợ khác hấp dẫn
trở nên tốn kém đối với cả ngân sách và chính sách
can thiệp của NHNN.
Ngoài ra, chi phí can thiệp trung hòa là rất lớn.
Thông thường, để trung hòa nội tệ trong lưu thông,
NHNN phải phát hành tín phiếu với lãi suất cao
(Mức lãi suất cao nhất là 11,68% ngày 25/3/2010).
Trong khi đó, hình thức đầu tư của dự trữ ngoại
hối Việt Nam hiện cũng còn đơn giản, chủ yếu là
dưới dạng tiền gửi tại các ngân hàng và các công cụ
tài chính như trái phiếu chính phủ. Mức chênh lệch
giữa chi phí NHNN bán tài sản nợ nội tệ với lợi tức
cao để mua tài sản có ngoại tệ với lợi tức thấp làm
tăng thêm rủi ro lãi suất. Mức chênh lệch càng lớn sẽ
đẩy chi phí can thiệp cao lên. Do đó, can thiệp mua
ngoại tệ có thể làm xấu đi nhanh chóng bảng cân đối
tài sản của ngân hàng Trung ương, làm xói mòn tính
độc lập và niềm tin vào chính sách tiền tệ.
Tài liệu thamkhảo:
1. Vũ Quang Huy, Nguyễn Thị Thu Hằng và Vũ PhạmHải Đăng (2011), Tỷ giá hối đoái
giaiđoạn2000-2011:Mứcđộsailệchvàtácđộngđốivớixuấtkhẩu,nghiêncứudo
Ủy ban Kinh tế Quốc hội (Chủ trì), NXB Tri thức (2013);
2. Đinh Thị Thanh Long và cộng sự (2014), Đo lườngmức độ sai lệch tỷ giá:
Kinh nghiệm quốc tế và những gợi ý chính sách cho Việt Nam, Đề tài
nghiên cứu khoa học, Học việnNgân hàng;
3. Michael Funke and Jörg Rahn, (2005), “Just How Undervalued is the Chinese
Renminbi? TheWorld economy”, Vo. 28, 2005, p. 465–489;
4. Các website: sbv.org.vn, mof.gov.vn,customs.gov.vn, gso.org.vn, imf.org,
worldbank.org…
Hình 1: Dự trữ ngoại hối của Việt Nam giai đoạn
quý I/1995 - II/2016
Nguồn: Ngân hàng Nhà nước
Hình 2: Mối quan hệ giữa sai lệch tỷ giá và dự trữ
ngoại hối của Việt Nam giai đoạn quý I/1995 - quý I/2016
Nguồn: IFS, tác giả tự tính toán
1...,80,81,82,83,84,85,86,87,88,89 91,92,93,94
Powered by FlippingBook