TCTC (2017) so 7 ky 1 (nen) - page 26

30
NHỮNG ĐIỂMMỚI CỦA DỰ THẢO LUẬT SỬA ĐỔI, BỔ SUNG LUẬT THUẾ BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG
hướng dẫn cụ thể tại các văn bản Luật, Nghị định,
Thông tư. Riêng về mặt hàng xăng, dầu, mỡ nhờn,
mặc dù Luật đã quy định chi tiết (có 7 nhóm sản
phẩm), tuy nhiên người tiêu dùng chưa thấy được
sự chênh lệch trong giá bán.
Thứ hai,
về thời điểm tính thuế BVMT: Theo
quy định của Luật Thuế BVMT hiện hành thì thời
điểm tính thuế BVMT đối với hàng hóa sản xuất
bán ra, trao đổi, tặng cho là thời điểm chuyển giao
quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng hàng hóa; Đối
với hàng hóa nhập khẩu, thời điểm tính thuế là
thời điểm đăng ký tờ khai hải quan. Quy định này
là phù hợp và mang tính thống nhất đồng bộ với
các sắc thuế gián thu khác như thuế giá trị gia tăng
(GTGT), thuế nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt.
Tuy nhiên, tại khoản 4, Điều 9 Luật Thuế BVMT
hiện hành quy định: “Đối với xăng, dầu sản xuất
hoặc nhập khẩu để bán, thời điểm tính thuế là thời
điểm đầu mối kinh doanh xăng, dầu bán ra”. Quy
định khác biệt về thời điểm tính thuế BVMT đối với
mặt hàng xăng, dầu nhằm phù hợp với chế độ phân
cấp NSNN tương ứng đã phá vỡ tính liên hoàn,
đồng bộ và tính thống nhất trong việc tổ chức quản
lý thu thuế BVMT.
Thứ ba,
về mức thu thuế BVMT: Với các loại
thuế khác, mức thu được tính theo tỷ lệ nhất định
trên giá tính thuế. Theo đó, giá tính thuế càng cao
thì mức thuế càng lớn. Tuy nhiên, thuế BVMT được
tính theo mức thu tuyệt đối/trên số lượng đơn vị
sản phẩm (Một lít xăng, dầu, một kg túi nilon hoặc
thuốc diệt cỏ thuộc loại hạn chế sử dụng…; một
tấn than đá…); đồng thời, có khung trần tối thiểu,
tối đa tiền thuế cho một đơn vị sản phẩm chịu thuế
để chủ động xác định mức thuế phù hợp cho từng
giai đoạn lịch sử cụ thể. Điều đó hoàn toàn phù
hợp với đặc thù của loại thuế này và cũng phù hợp
với thông lệ quốc tế. Tuy nhiên, mức thu cụ thể đối
với một số mặt hàng chưa tương xứng với mức độ
ô nhiễm gây ra (như túi nilon) cần được điều chỉnh
cho phù hợp.
Thứ tư,
về quản lý thu thuế BVMT: Theo Luật
Thuế BVMT, người nộp thuế BVMT là tổ chức, hộ
gia đình, cá nhân sản xuất, nhập khẩu hàng hóa
thuộc đối tượng chịu thuế. Các sản phẩm có quy
mô sản xuất lớn như: Xăng dầu, than, các loại
thuốc diệt cỏ; Thuốc trừ mối; Thuốc bảo quản lâm
sản thuộc loại hạn chế sử dụng… quản lý ở khâu
sản xuất để thu thuế BVMT tương đối tốt. Riêng
mặt hàng túi nilon việc quản lý thu thuế đối với các
cơ sở sản xuất, gia công nhỏ lẻ của các hợp tác xã,
gia đình, nhóm, cá nhân sản xuất kinh doanh chưa
có hiệu quả cao.
Thực tế cho thấy, việc nghiên cứu xây dựng Luật
Thuế BVMT sửa đổi, bổ sung là thực sự cần thiết
nhằm tiếp tục thể chế hóa quan điểm, chủ trương
của Đảng và Nhà nước trong quá trình hoàn thiện
chính sách tài chính về BVMT; Khắc phục tính
thiếu đồng bộ của hệ thống chính sách thuế hiện
nay; Đồng thời, phù hợp với mục tiêu cải cách thuế
BVMT theo Chiến lược cải cách hệ thống thuế đến
năm 2020; Khắc phục những vướng mắc, hạn chế
của chính sách thuế BVMT hiện hành.
Mục tiêu sửa đổi, bổ sung thuế bảo vệ môi trường
Việc sửa đổi, bổ sung Luật Thuế BVMT nhằm
vào các mục tiêu và nội dung cụ thể sau:
Một là,
cải cách thuế BVMT, góp phần khắc phục
tính thiếu đồng bộ của hệ thống chính sách.
Hệ thống chính sách và quản lý thuế của Việt
Nam đang hướng đến tính minh bạch, thống nhất,
hiệu quả, phù hợp với tiến trình hội nhập kinh tế
khu vực và thế giới. Đồng thời, thực hiện cải cách
thủ tục hành chính thuế, tạo thuận lợi cho doanh
nghiệp (DN) trong quá trình thực thi theo tinh thần
các nghị quyết của Chính phủ, trong đó nổi bật là
các Nghị quyết 19/NQ-CP năm 2014, 2015, 2016 và
năm 2017.
Tuy nhiên, nhằm giải quyết tháo gỡ khó khăn
vướng mắc cho DN, hệ thống chính sách thuế đã
được sửa đổi, bổ sung nhiều lần theo các mục
tiêu khác nhau nên trong một số trường hợp cụ
thể đã làm mất tính hệ thống, liên hoàn, đồng
bộ của hệ thống chính sách thuế. Chiến lược Cải
cách hệ thống thuế (ban hành kèm theo Quyết
định 732/QĐ-TTg ngày 17/5/2011 của Thủ tướng
Chính phủ) đã đưa ra mục tiêu cải cách tổng
quát là: “Xây dựng hệ thống chính sách thuế
đồng bộ, thống nhất, công bằng, hiệu quả, phù
hợp với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa; mức động viên hợp lý nhằm tạo
điều kiện thúc đẩy sản xuất trong nước và là một
trong những công cụ quản lý kinh tế vĩ mô hiệu
quả, hiệu lực của Đảng và Nhà nước…”. Trong
đó, nội dung cải cách chính sách thuế BVMT là:
Số thu từ thuế BVMT liên tục tăng trưởng qua
từng năm, đến năm 2017 đã tăng hơn 4 lần so
với số thu năm 2012 - Năm đầu tiên thực hiện
Luật Thuế BVMT. Số thu từ thuế BVMT cụ thể
qua các năm: Năm2012 là 11.160 tỷ đồng; Năm
2013 là 11.512 tỷ đồng; Năm 2014 là 11.970 tỷ
đồng; Năm 2015 là 27.020 tỷ đồng; Năm 2016
khoảng 44.323 tỷ đồng.
1...,16,17,18,19,20,21,22,23,24,25 27,28,29,30,31,32,33,34,35,36,...90
Powered by FlippingBook