TCTC (2017) so 7 ky 1 (nen) - page 23

TÀI CHÍNH -
Tháng 7/2017
27
kho thuộc loại hạn chế sử dụng. Có thể thấy, Luật
Thuế BVMT thể hiện rõ quan điểm sử dụng thuế
điều tiết vào các hàng hóa gây ô nhiễm nhằm BVMT
sinh thái, góp phần thay đổi nhận thức của con người
đối với môi trường, thúc đẩy phát triển kinh tế bền
vững theo xu hướng phát triển của thế giới.
- Thuế TNDN:
Là sắc thuế thuộc loại thuế trực
thu, trực tiếp quản lý và điều tiết đối với các hoạt
động sản xuất kinh doanh của các DN trong nền
kinh tế nên thuế TNDN đã có nhiều các quy định
mang tính định hướng, điều tiết; khuyến khích đối
với các hoạt động sản xuất kinh doanh quan trọng,
thiết yếu tại các địa bàn cần thiết và có tính hạn chế
đối với các hoạt động sản xuất kinh doanh chưa thật
cần thiết, gây tổn hại đến đời sống văn hóa, xã hội
và môi trường. Thực tế triển khai Luật Thuế TNDN
qua các năm cho thấy, thông qua các quy định về
khuyến khích, ưu đãi đối với các dự án BVMT, các
hoạt động thân thiện với môi trường, Luật Thuế
TNDN đã có những đóng góp nhất định trong việc
định hướng, tạo điều kiện cho các DN quan tâm,
đầu tư vào các lĩnh vực, ngành nghề có lợi cho môi
trường sinh thái, giảm thiểu các hoạt động gây tác
hại đến môi trường.
- Thuế TTĐB:
Thuế TTĐB đánh vào một số hàng
hoá cần hạn chế sản xuất và tiêu dùng như thuốc
lá, xăng, ôtô, bia, rượu, điều hòa nhiệt độ... đã góp
phần giảm thiểu các tác hại đến môi trường. Thực
tế cho thấy, mỗi khi điều chỉnh đối tượng chịu thuế
hay điều chỉnh thuế suất thuế TTĐB, mức độ tiêu
dùng các mặt hàng chịu thuế lập tức có sự thay đổi,
góp phần hạn chế tiêu dùng những sản phẩm, hàng
hóa ảnh hưởng xấu đến môi trường.
- Thuế tài nguyên:
Mức thuế suất thuế tài nguyên
được phân biệt theo từng nhóm, loại tài nguyên;
mức thuế suất từ 1% (đối với nước mặt sử dụng
để sản xuất nước sạch) đến 20%, 30%, 35% (đối với
yến sào, gỗ quý hiếm…) đã có tác động đến việc
khai thác, sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả nguồn
tài nguyên, góp phần BVMT sinh thái. Thuế tài
nguyên còn là một công cụ quan trọng để các cơ
quan quản lý nhà nước tăng cường công tác quản
lý, giám sát quá trình hoạt động khai thác tài
nguyên theo đúng quy định của pháp luật.
Có thể khẳng định, các quy định của các sắc thuế
liên quan đến môi trường hiện hành như trong hệ
thống thuế Việt Nam đã tạo thêm nguồn thu cho
NSNN; đồng thời, có tác động làm thay đổi nhận
thức và hành vi của tổ chức, cá nhân trong việc
BVMT.
Tuy nhiên, tác động thực tế của chính sách thuế
đến mục tiêu BVMT tự nhiên ở Việt Nam thời gian
qua vẫn còn nhiều hạn chế, vai trò của chính sách
thuế đối với việc BVMT vẫn còn mờ nhạt. Những
nguyên nhân chủ yếu có thể đề cập tới đó là:
-
Việc điều chỉnh các hành vi gây tác động xấu
tới môi trường sinh thái tự nhiên trong các sắc thuế
khác chủ yếu mang tính lồng ghép nên tác dụng của
chúng đối với BVMT là không lớn, chưa thực sự tác
động đến hoạt động sản xuất và hành vi tiêu dùng
gây tác động xấu đến môi trường.
-
Môi trường sinh thái chịu tác động rất lớn từ các
hoạt động kinh tế. Trong bối cảnh hội nhập và phát
triển, nhiều dự án, công trình, nhà máy được xây
dựng kéo theo rất nhiều các hoạt động ảnh hưởng
đến môi trường trong khi năng lực thẩm định và
quản lý của các cơ quan có thẩm quyền chưa theo
kịp. Nhiều DN vì mục tiêu lợi nhuận, thực hiện việc
khai thác, xây dựng, sản xuất, kinh doanh không
đáp ứng các yêu cầu đối với BVMT, gây ra các tác
hại rất lớn đến môi trường. Trong điều kiện đó, rõ
ràng, chính sách thuế đối với môi trường không thể
phát huy được vai trò của mình.
-
Trên góc độ toàn xã hội và các DN, nhìn nhận về
vai trò của chính sách thuế trong việc BVMT còn mờ
nhạt, do vậy, trong chính sách và hoạt động triển
khai chính sách, mặc dù đã có hướng đến mục tiêu
này nhưng cách hiểu và thực hiện của cộng đồng xã
hội còn chưa triệt để.
Giải pháp hoàn thiện chính sách thuế
bảo vệ môi trường ở Việt Nam
Thuế bảo vệ môi trường
Thuế BVMT được hoàn thiện theo hướng:
-
Cần quy định đầy đủ, chi tiết, cụ thể hơn về đối
tượng chịu thuế, các trường hợp không chịu thuế
BVMT. Thực tế hiện nay, việc xác định một hàng
hóa có thuộc đối tượng chịu thuế BVMT hay không
là rất phức tạp, không chỉ phụ thuộc vào thực thể
hàng hóa đó mà còn phụ thuộc vào các yếu tố khác
như các chất cấu thành trong hàng hóa, khâu kinh
doanh hàng hóa, mục đích sử dụng của hàng hóa...
Việc quy định đầy đủ, chi tiết về đối tượng chịu
thuế cũng như cách thức, phương pháp xác định sẽ
đảm bảo được việc quản lý thu thuế chính xác, tránh
các trường hợp gian lận, sai sót trong kê khai, tính
thuế cũng như quản lý thuế, phát huy được vai trò
BVMT của sắc thuế này.
-
Cần rà soát, tính toán, đánh giá mức độ gây ô
nhiễm của các hàng hóa chịu thuế để xây dựng mức
thuế phù hợp với từng hàng hóa, đảm bảo mức thuế
BVMT được xây dựng tương ứng với mức độ gây ô
nhiễm của hàng hóa.
1...,13,14,15,16,17,18,19,20,21,22 24,25,26,27,28,29,30,31,32,33,...90
Powered by FlippingBook