TÀI CHÍNH -
Tháng 12/2017
77
30 năm đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Tính
chung 11 tháng đầu năm, tổng vốn đầu tư trực
tiếp nước ngoài (FDI) đăng ký cấp mới, tăng
thêm và góp vốn, mua cổ phần đạt 33,09 tỷ USD,
tăng 82,8% so với cùng kỳ 2016. Điểm nhấn là,
vốn giải ngân đã đạt con số khoảng 16 tỷ USD và
dự kiến đạt khoảng 17,5-18 tỷ USD trong cả năm,
tăng 12-15% so với năm ngoái.
Như vậy, từ năm 1988 đến nay, dòng vốn FDI
vào Việt Nam có nhiều biến động nhưng tổng vốn
FDI có xu hướng tăng theo thời gian. Tuy nhiên, để
cải thiện tỷ lệ vốn thực hiện so với vốn đăng ký, đòi
hỏi phải có chính sách thu hút vốn đầu tư ổn định,
quản lý và sử dụng FDI một cách có hiệu quả hơn.
FDI vào Việt Nam phân theo đối tác đầu tư
Trong giai đoan 1988 – 2016, đã có 78 quốc gia và
vùng lãnh thổ trên thế giới có lượng vốn FDI đổ về
Việt Nam. Trong đó, quốc gia có vốn FDI lớn nhất
là Hàn Quốc với 5.773 dự án và tổng số vốn đăng
ký là 50.553,9 triêu USD. Mặc dù số vốn bình quân
trên một dự án la 8,76 triệu USD, thấp hơn so với
quy mô vôn trung bình của một dự án FDI ở Viêt
Nam la 13 triệu USD nhưng các DN có vốn FDI
của Hàn Quốc tiêu biểu như các hãng Samsung,
LG hay Lotte... luôn là một bộ phận quan trọng
của nền kinh tế nước ta.
Đối tác đầu tư lớn thứ hai của Việt Nam là Nhật
Bản với các thương hiệu như Honda, Toyota... với
3.292 dự án và tổng số vốn đăng ký là 42.433,9 triêu
USD. Tập đoàn Aeon đã xây dựng 3 khu trung tâm
Aeon Mall tại 3 thành phố lớn nhất của Việt Nam là
Hà Nội, Đà Nẵng và TP. Hồ Chí Minh. Tiếp theo là
Singapore với số vốn FDI đầu tư vào nước ta có xu
hướng ngày càng tăng mạnh. Lượng vốn này tập
trung nhiều nhất ở ngành công nghiệp chế biến và
kinh doanh bất động sản.
như: Công ty liên doanh khai thác và chế biến khoáng
sản Núi Pháo (tổng vốn đầu tư 147 triệu USD), Công
ty Đầu tư và phát triển Thành Công (tổng vốn đầu tư
114,58 triệu USD), Công ty TNHH Shing Mark Vina
(tổng số vốn đầu tư hơn 50 triệu USD)...
Giai đoạn 2006-2010, FDI có sự biến động thất
thường. Năm 2006, tổng số vốn đăng ký là 12.004 triệu
USD, tăng 75,5% so với năm 2005. Năm 2007 và năm
2008, FDI đổ vào Việt Nam tăng lên nhanh chóng, do
từ tháng 1/2007, Việt Nam trở thành thành viên chính
thức của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Bên
cạnh đó, môi trường đầu tư – kinh doanh trong nước
ngày càng được cải thiện, khung pháp luật về đầu tư
ngày càng phu hợp với thông lệ quốc tế, nên nhiều làn
sóng đầu tư lớn từ Hàn Quốc, Hoa Kỳ, Nhật Bản đồng
loạt rót vốn vào Việt Nam. Đến năm 2009 và 2010, do
ảnh hưởng bởi khủng hoảng kinh tế toàn cầu, dòng
vốn FDI vào Việt Nam cũng bị sụt giảm đáng kể.
FDI tăng không đáng kể trong giai đoạn 2011-
2015. Năm 2011, có 1.186 dự án được cấp mới với
tổng số vốn đăng ký là 15.589 triệu USD (giảm
21,57% so với năm 2010). FDI giảm la do ảnh hưởng
suy thoái kinh tế toàn cầu, các nhà đầu tư giảm sút
niềm tin, bên cạnh đó lạm phát và các chi phí đầu
vào tăng, việc giải phóng mặt bằng nhiều dự án gặp
nhiều khó khăn... Tuy nhiên, từ năm 2012 - 2015, số
lượng dự án FDI và tổng số vốn đăng ký đã có xu
hướng cải thiện.
Năm 2016, với việc hàng loạt Hiêp định
thương mại tự do (FTA) có hiệu lực nguồn vốn
đầu tư FDI đã bắt đầu tăng lên. Tính chung tổng
vốn đăng ký của các dự án cấp mới, cấp vốn bổ
sung và đầu tư theo hình thức góp vốn, mua cổ
phần trong năm 2016 đạt hơn 24,3 tỷ USD, tăng
7,1% so với năm 2015. Điểm đáng lưu ý là vốn
FDI thực hiện năm 2016 ước tính đạt 15,8 tỷ USD,
tăng 9% so với năm 2015, đạt mức giải ngân vốn
FDI cao nhất từ trước đến nay.
Năm 2017 đánh dấu một mốc rất ý nghĩa -
Hình1: Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam
giai đoạn 1998-2016
Nguồn: Tổng cục Thống kê
Hình 2: FDI vào Việt Nam (1988 - 2016)
được cấp giấy phép phân theo đối tác đầu tư chủ yếu
(Lũy kế các dự án còn hiệu lực đến ngày 31/12/2016)
Nguồn: Tổng cục Thống kê