20
chính sách tài chính với doanh nghiệp khởi nghiệp ở việt nam
(Miễn giảm nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nước) sẽ
là biện pháp hiệu quả hơn.
Với tính chất là các cơ chế, cách thức can thiệp từ
góc độ Nhà nước để giúp đỡ và qua đó thúc đẩy sự
phát triển của các start-up, những biện pháp hỗ trợ
mà Chính phủ đã hoặc đang thực hiện đều tập trung
vào việc giúp giải quyết hoặc xử lý các vướng mắc,
khó khăn, hạn chế của startup. Các biện pháp hỗ trợ
về thuế đối với DN khởi nghiệp đổi mới sáng tạo có
thể được chia thành các nhóm chủ yếu sau đây:
Đối với các DN khởi nghiệp, các start-up:
Các DN
khởi nghiệp trong thời gian đầu hoạt động có thể
chưa có doanh thu, thu nhập. Vì vậy, nên áp dụng
có mức ưu đãi thuế cao hơn so với các DN khác
như: Cho phép miễn thuế trong thời gian 5 năm
đầu hoạt động và áp dụng thuế suất thuế TNDN
10% trong thời gian dài hơn so với thời hạn 15
năm mức ưu đãi hiện đang áp dụng với các DN
khác. Đồng thời, có thể cho phép chuyển lỗ không
giới hạn thời gian thay vì 5 năm như hiện nay để
đảm bảo hỗ trợ tối đa cho DN khởi nghiệp.
Đối với các đối tượng hỗ trợ DN khởi nghiệp (các
trường đại học, viện nghiên cứu, vườn ươm):
Ban hành
quy định về chính sách tài chính nói chung, chính
sách thuế nói riêng có tính chất đặc thù đối với
nhóm đối tượng này. Có thể vận dụng những kết
quả đạt được từ việc thí điểm đối với vườn ươm tại
Cần Thơ để phát triển cho tất cả các vườn ươm trên
toàn quốc, cụ thể:
- Miễn thuế nhập khẩu các hàng hóa là máy móc,
thiết bị, phụ tùng, vật tư, phương tiện vận tải trong
nước chưa sản xuất được; công nghệ trong nước
chưa tạo ra được; tài liệu, sách, báo, tạp chí khoa
học và các nguồn tin điện tử về khoa học và công
nghệ của DN nhập khẩu phục vụ trực tiếp vào hoạt
động ươm tạo công nghệ tại vườn ươm.
- Áp dụng mức thuế suất ưu đãi 10% trong thời
hạn 15 năm, miễn thuế 4 năm và giảm 50% số thuế
phải nộp trong 9 năm tiếp theo đối với các DN
thực hiện dự án đầu tư mới ươm tạo công nghệ cao
trong các lĩnh vực tại vườn ươm, hoặc TNDN từ
thực hiện dự án đầu tư mới ứng dụng công nghệ
cao thuộc danh mục công nghệ cao được ưu tiên
đầu tư phát triển mà được ươm tạo thành công tại
Vườn ươm được áp dụng.
- Áp dụng quy định về việc giảm thuế TNCN
cho các chuyên gia làm việc tại vườn ươm như
đối với các cá nhân làm việc trong các khu kinh
tế hiện nay.
Đối với các nhà đầu tư khởi nghiệp:
Chính sách cần
được thiết kế với mục tiêu hỗ trợ tối đa cho các nhà
đầu tư khởi nghiệp. Để thực hiện mục tiêu này, cần
ban hành quy định về đầu tư mạo hiểm bên cạnh
việc quy định về đầu tư cho các DN nhỏ và vừa
khởi nghiệp sáng tạo như Nghị định số 38/2018/
NĐ-CP. Trong đó, cần chỉ rõ nghĩa vụ thuế của các
nhà đầu tư này khi thực hiện đầu tư cũng như khi
chuyển nhượng vốn. Nên đưa ra những quy định
về giảm thuế TNDN (đối với các nhà đầu tư là DN)
hoặc thuế TNCN (đối với các cá nhân đầu tư) trong
trường hợp có thu nhập từ đầu tư hoặc chuyển
nhượng vốn. Đồng thời, có thể cho phép bù trừ số
lỗ của dự án đầu tư cho khởi nghiệp với các dự án
khác để giảm bớt rủi ro cho các nhà đầu tư, khuyến
khích các nhà đầu tư bỏ vốn cho DN khởi nghiệp.
Ngoài ra, cần có những quy định về thủ tục hành
chính thuế và chế độ kế toán đơn giản theo quy định
của pháp luật về thuế, kế toán. Việc đăng ký thuế
hiện đã được thực hiện qua mạng internet, tuy nhiên,
để đơn giản cho các DN khởi nghiệp, có thể quy định
các DN khởi nghiệp trong 5 năm đầu nếu chưa có
doanh thu có thể khai thuế GTGT 6 tháng một lần.
Bên cạnh việc ban hành các chính sách đối với
các nhà đầu tư nêu trên, các nghiên cứu chẩn đoán
và thực nghiệm ở nhiều nước trên thế giới (kể cả đã
phát triển và đang phát triển) cho thấy, các DN khởi
nghiệp tận dụng được rất ít từ các khoản đầu tư, đặc
biệt là các khoản đầu tư ngoài vốn tự có của chính
các sáng lập viên hoặc người thân; trong cơ cấu vốn,
phần vốn vay của DN khởi nghiệp lớn hơn nhiều
so với phần vốn đầu tư; các DN khởi nghiệp khó
tiếp cận vốn vay hơn là các DN nhỏ và vừa truyền
thống và rất hiếm các DN khởi nghiệp có thể dùng
tài sản sở hữu trí tuệ của mình để thế chấp/bảo lãnh
vay vốn. Do đó, bên cạnh các biện pháp hỗ trợ để
DN khởi nghiệp tăng khả năng tiếp cận vốn đầu
tư, OECD khuyến nghị các Chính phủ cũng nên tập
trung vào các biện pháp hỗ trợ để DN khởi nghiệp
có thể tiếp cận các khoản vay tín dụng tốt hơn.
Tài liệu tham khảo:
1. VCCI, 2017, Báo cáo Nghiên cứu” Cơ chế hỗ trợ DN khởi nghiệp sáng tạo -
kinh nghiệm quốc tế - đề xuất giải pháp cho Việt Nam”;
2. VCCI và USAID, 2017, Việt Nam - Đất lành cho khởi nghiệp - Tại sao không?
3. Lê Minh Hương, (2017), Chính sách tài chính hỗ trợ DN khởi nghiệp: Kinh
nghiệm một số nước và gợi ý cho Việt Nam, Tạp chí Quản lý Ngân quỹ Quốc
gia số 176 (2/2017);
4. Dan Isenberg, How entrerpreneurship eccosystems are stimulating
economic growth aroud the world;
5. Christian Keuschnigs and Soren Bo Nielsen (February, 2002), Start-ups,
Venture Capitalists, and the Capital Gains Tax, Centre for Economic Policy
Research (CEPR) the Center for Economic Studies (CESifo), University of Munich;
6. Susan C.Morse and Eric J.Allen (2016), Innovation and Taxation at Start-up
Firms, Tax Policy Center (TPC), Tax Law Review, Vol 69 No. 3 (p357 – p388).