TÀI CHÍNH -
Tháng 7/2018
25
phương pháp định lượng. Nghiên cứu sử dụng 540
quan sát từ chỉ số đại diện TTCK của năm quốc gia
trong khu vực ASEAN giai đoạn 2009-2017 gồm
VN-Index của Việt Nam, JCI (Jakarta Composite
Index) của Indonesia, FTSE KLCI (Kuala Lumpur
Composite Index) của Malaysia, PSEI (Philippines
Stock Exchange Composite Index) của Philippines,
SET (Thailand Stock Market) của Thái Lan. Mô hình
nghiên cứu có dạng:
Index
it
= βo + β
1
.senti
t-1
+ εi
t-1
(3.1)
Trong đó:
Index
it
: chỉ số giá TTCK quốc gia i kỳ t
sent
it-1
: độ nhạy cảm NĐT quốc gia i kỳ t -1
ε
it-1
: các biến kiểm soát quốc gia i kỳ t -1
Biến phụ thuộc (Chỉ số giá TTCK của quốc gia-
INDEX)
Mỗi quốc gia tính chỉ số index theo số lượng cổ
phiếu khác nhau, điều kiện chọn các công ty tính
toán khác nhau theo từng thị trường. Tuy nhiên,
các quốc gia đều sử dụng công thức tính toán theo
phương pháp chỉ số giá bình quân Passcher:
Trong đó:
P
1i
: giá hiện hành của cổ phiếu i
Q
1i
: khối lượng cổ phiếu đang lưu hành của cổ
phiếu i (Khối lượng cổ phiếu niêm yết)
P
1i
: giá của cổ phiếu i thời kỳ gốc
Q
1i
: khối lượng cổ phiếu i tại thời kỳ gốc
Biến giải thích
Niềm tin tiêu dùng (NIEMTIN) là một chỉ số
được thiết kế để đo lường mức độ lạc quan (Sum,
2012) mà người tiêu dùng cảm nhận về tình trạng
tổng thể của nền kinh tế và tình hình tài chính cá
nhân của họ. Nếu niềm tin tiêu dùng cao hơn, người
tiêu dùng đang mua hàng nhiều hơn, sẽ thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế.
Niềm tin tiêu dùng Indonesia được báo cáo bởi
Ngân hàng Indonesia theo từng tháng. Indonesia,
chỉ số niềm tin tiêu dùng (CCI) đo lường sự mong
đợi của người tiêu dùng về thu nhập hiện tại và sẵn
sàng chống lại những công việc 6 tháng trước, thời
điểm thích hợp để mua hàng hóa lâu bền và điều
kiện kinh tế nói chung và kỳ vọng nhu cầu tuyển
dụng trong 6 tháng tiếp theo.
Niềm tin tiêu dùng tại Malaysia được báo cáo bởi
Viện Nghiên cứu Kinh tế của Malaysia theo từng
quý. Tại Malaysia, để tính chỉ niềm tin tiêu dùng,
Viện sẽ tiến hành khảo sát người tiêu dùng, được
nguyên nhân ban đầu khiến lĩnh vực tài chính hành
vi non trẻ trở nên thu hút chính là sự không minh
bạch trong giá cả thị trường. Nói cách khác, những
bất thường của thị trường cho thấy, khả năng chúng
có thể được giải thích bằng tâm lý học. Những hạn
chế trong việc kinh doanh chênh lệch giá có thể
ngăn cản các NĐT lý trí điều chỉnh giá cả về giá trị
nội tại (Shleifer và Vishny (1997); Barberis và Thaler,
2003). Điều này có thể tạo ra một khả năng là các sai
lầm liên quan trong nhận thức của NĐT có thể ảnh
hưởng đến thị trường.
Nghiên cứu thực nghiệm trước đây
Kết quả của nhiều nghiên cứu trước đây đã đưa
ra bằng chứng thực nghiệm về việc lựa chọn chỉ số
niềm tin tiêu dùng làm nhân tố đại diện độ nhạy
cảm NĐT và có tác động với giá chứng khoán trong
tương lai:
Lựa chọn chỉ số niềm tin tiêu dùng làm nhân tố đại
diện độ nhạy cảm NĐT
Kết quả nghiên cứu của Fisher và Meir, 2003 cho
thấy, niềm tin tiêu dùng tăng cùng với lợi nhuận
chứng khoán cao; Độ nhạy cảm của NĐT chứng
khoán cá nhân cải thiện cùng với niềm tin tiêu dùng
của nền kinh tế. Bên cạnh đó, các nhà nghiên cứu đã
kiểm tra hai nhân tố có thể đại diện cho độ nhạy cảm
NĐT, đó là tỷ lệ chiết khấu các quỹ đóng và niềm tin
tiêu dùng (Qiu và Welch, 2006). Kết quả cho thấy, chỉ
có niềm tin tiêu dùng mới tuân theo nguyên tắc quan
trọng của việc định giá thị trường tài chính; sự thay
đổi trong niềm tin tiêu dùng có thể giải thích được lợi
nhuận thặng dư của nhóm chứng khoán vốn hóa nhỏ.
Sự tác động của độ nhạy cảm NĐT đến lợi nhuận
chứng khoán
Theo nghiên cứu của Jansen và Nahuis, 2003 về mối
quan hệ giữa sự phát triển của TTCK và niềm tin tiêu
dùng của 11 quốc gia ở châuÂu từ năm1986 – 2001 cho
thấy, lợi nhuận chứng khoán và sự thay đổi độ nhạy
cảm của NĐT có mối quan hệ với nhau. Các nghiên
cứu đã đưa ra những phân tích cụ thể cho thấy, niềm
tin tiêu dùng có thể giúp giải thích những thay đổi của
lợi nhuận tài sản và có những ảnh hưởng tích cực cùng
chiều, đến lợi nhuận thặng dư (Lemon và Portnaguina,
2006; Wu-Jen, Liang-Yud và Wen-Chen, 2010).
Phương pháp nghiên cứu
Mô hình nghiên cứu
Mô hình nghiên cứu được xây dựng dựa trên
cơ sở mô hình của Maik Schmeling (2008), sử dụng