TÀI CHÍNH -
Tháng 11/2015
17
trong quyết định sử dụng vốn và trả nợ vay. Đây
cũng là giải pháp đã được đề cập trong Chỉ thị 02/
CT-TTg năm 2015. Cụ thể là, gắn khâu huy động,
phân bổ, quyết định đầu tư với khả năng bố trí
nguồn lực thực hiện, khả năng trả nợ; gắn phân cấp
với tự chịu trách nhiệm trong quyết định sử dụng
vốn và trả nợ vay.
Sáu là,
tăng cường minh bạch hóa trong công tác
quản lý, thống kê và công bố thông tin về nợ công.
Xem xét việc xếp hạng tín nhiệm với vay nợ của
chính quyền địa phương
Bảy là,
phát triển thị trường trái phiếu Chính
phủ độc lập với thị trường chứng khoán nhằm tăng
cường huy động nguồn vốn trái phiếu trung, dài
hạn và tái cơ cấu kỳ hạn nợ công trong nước
Tám là,
xem xét việc xây dựng các chỉ tiêu về an
toàn nợ công phù hợp với thông lệ quốc tế và tình
hình mới. Xây dựng hệ thống chỉ tiêu thống kê nợ
công để nâng cao trách nhiệm giải trình và hiệu quả
quản lý giám sát nợ công.
Tuy nhiên, các giải pháp trên chủ yếu mang tính
kỹ thuật, để đảm bảo bền vững của nợ công thì giải
pháp cơ bản nhất vẫn là phải giảm dần bội chi và
tiến tới NSNN cân bằng về dài hạn. Nói cách khác là
cần cơ cấu lại tổng thể cả nguồn thu và chi NSNN.
Tóm lại, để đáp ứng nhu cầu cho phát triển trong
khi nguồn thu NSNN còn hạn chế thì vay nợ là cần
thiết. Trong quản lý nợ công hiện nay việc công khai
về nợ công đã được cải thiện tích cực, tạo được kênh
thông tin quan trọng phục vụ cho việc phân tích,
đánh giá, nghiên cứu về vấn đề nợ công. Thế nhưng,
nợ công đang tăng nhanh, cơ cấu nợ chưa thực sự
bền vững, việc sử dụng các khoản vay ngắn hạn cho
đầu tư dài hạn làm phát sinh rủi ro tái cấp vốn và
tạo ra áp lực trả nợ lớn trong ngắn hạn; công tác
quản lý nợ công còn, thiếu sự phối hợp đồng bộ
giữa các bộ, ngành và địa phương, gây khó khăn
trong công tác giám sát chỉ tiêu an toàn nợ công...,
vì vậy, rất cần có ngay những hành động quyết liệt
và đồng bộ.
Tài liệu tham khảo:
1. Bộ Tài chính (2014), Bản tin nợ công số 3;
2. Bộ Tài chính, Quyết toán và Dự toán Ngân sách Nhà nước (nhiều năm);
3. Ngân hàng Thế giới (2014) “Làm cho cái tổng thể lớn hơn từng phần gộp
lại: Đánh giá về phân cấp tài khóa ở Việt Nam” – Báo cáo nghiên cứu (chưa
xuất bản);
4. Phạm Thế Anh và cộng sự (2012), Nợ công và tính bền vững ở Việt Nam: Quá
khứ, hiện tại và tương lai, Ủy ban Kinh tế Quốc hội và UNDP;
5. Vũ Sỹ Cường (2013) “Bền vững và kỷ luật tài khóa” – Chương 4 sách “Thách
thức còn ở phía trước – Báo cáo Kinh tế vĩ mô 2013 – Nhóm tư vấn Uỷ ban
Kinh tế Quốc hội.
Giải pháp nâng cao hiệu quả vốn vay
và tính bền vững của nợ công
Nhằm tiếp tục sử dụng hiệu quả vốn vay, đồng
thời đảm bảo tính bền vững của nợ công, cần xem
xét thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp, gồm:
Một là,
hoàn thiện các vấn đề về thể chế liên quan
đến ngân sách, nợ công. Cần nhanh chóng ban hành
các quy định đảm bảo cho việc thực thi tốt Luật
NSNN 2015, Luật Đấu thầu, Luật Đầu tư công, đánh
giá lại Luật Quản lý nợ công để sửa đổi bổ sung
cho phù hợp với bối cảnh mới, sửa đổi và bổ sung
Nghị định 38/2013/NĐ-CP liên quan đến quản lý
vốn ODA... Đồng thời, cần có kế hoạch nghiên cứu
hoàn thiện các đề án về việc tăng cường cho vay lại
với các cấp chính quyền địa phương và cho các định
chế tài chính tự chịu rủi ro để giảm bớt áp lực của
Nhà nước.
Hai là,
tiếp tục thực hiện quản lý chặt các
khoản vay mới. Trong Chỉ thị số 02/CT-TTg về
tăng cường công tác quản lý và nâng cao hiệu quả
sử dụng nợ công, Thủ tướng Chính phủ đã yêu
cầu cần tính đúng, tính đủ nợ công theo quy định,
đảm bảo trong giới hạn cho phép. Nợ công chỉ sử
dụng cho đầu tư phát triển, xây dựng các công
trình kinh tế - xã hội quan trọng, thiết yếu theo
quy hoạch, thực hiện rà soát, thẩm định, đánh giá
tác động lên nợ công của các chương trình, dự án
sử dụng vốn vay của Chính phủ, vốn vay được
Chính phủ bảo lãnh và vốn vay của chính quyền
địa phương ngay từ khâu phê duyệt chủ trương
đầu tư bằng nguồn vốn vay. Quản lý chặt chẽ các
khoản vay có bảo lãnh của Chính phủ theo hướng
siết chặt điều kiện cấp bảo lãnh, không mở rộng
diện, chọn lọc có mục tiêu ưu tiên, tiến tới thu hẹp
bảo lãnh Chính phủ và kiểm soát việc bảo đảm
trả nợ đối với các khoản vay được Chính phủ bảo
lãnh; thực hiện tăng dần tỷ lệ cho vay lại, giảm
dần tỷ lệ cấp phát và thu hồi nợ đối với các khoản
Chính phủ vay về cho vay lại.
Ba là,
tiếp tục cơ cấu lại nợ công theo hướng tăng
tỷ trọng vốn vay dài hạn để giảm áp lực trả nợ trong
ngắn hạn.
Bốn là,
tăng cường quản lý nợ nước ngoài của
quốc gia, nhất là việc vay ngắn hạn của doanh
nghiệp, tổ chức tín dụng để đảm bảo các tiêu chí nợ
nước ngoài của quốc gia trong giới hạn cho phép
(nợ nước ngoài của quốc gia không quá 50% GDP và
nghĩa vụ trả nợ nước ngoài của quốc gia hàng năm
so với tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa và dịch
vụ dưới 25%).
Năm là,
gắn phân cấp với tự chịu trách nhiệm