TÀI CHÍNH -
Tháng 5/2016
91
chuyển lao động phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) chung (chưa phát huy
được thế mạnh của từng địa phương trong vùng về
nguồn nhân lực, tài nguyên thiên nhiên và đặc điểm
sinh thái; các vùng kinh tế trọng điểm chưa được quy
hoạch phát triển đồng bộ để tạo động lực tác động lan
toả mạnh đến những vùng khó khăn khác; thị trường
lao động vẫn mất cân đối nghiêm trọng về cung - cầu
lao động; quy hoạch các khu công nghiệp không hợp lý
dẫn đến thừa - thiếu lao động hầu hết mang tính cục bộ
và làm lãng phí nguồn nhân lực của đất nước).
- Quá trình chuyển dịch chưa bền vững cả về việc
làm, thu nhập, vị thế, điều kiện làm việc và an sinh
xã hội; lao động nông nghiệp, nông thôn vẫn thuộc
khu vực phi chính thức chịu nhiều rủi ro và dễ bị tổn
thương, đặc biệt lao động di cư gặp rất nhiều khó khăn
khi tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản và hội nhập với
dân bản địa trong quá trình di cư nông thôn- thành thị.
- Tỷ trọng lao động trong các ngành dịch vụ phục vụ
sản xuất – đời sống và công nghiệp chế biến còn khiêm
tốn chưa tương xứng với vai trò thúc đẩy chuyển dịch
cơ cấu kinh tế nông thôn. Kinh tế nông thôn vẫn cơ bản
là nông nghiệp, sản xuất nhỏ lẻ, manh mún, tự phát,
kinh tế hàng hóa chưa phát triển, ở các vùng sâu, vùng
xa kinh tế tự cung tự cấp vẫn là phổ biến.
- Công tác dạy nghề cho lao động nông thôn cho
lao động nông nghiệp, nông thôn chưa thực sự đột phá
về cả số lượng và chất lượng. Cơ cấu lao động chưa
đáp ứng được yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa
nông nghiệp, nông thôn. Công tác tư vấn, điều tra khảo
sát nhu cầu học nghề còn hạn chế dẫn đến tình trạng
đào tạo không phù hợp với điều kiện của người học và
nhu cầu sử dụng lao động của doanh nghiệp. Cơ sở vật
chất, thiết bị dạy nghề còn hạn chế so với yêu cầu năng
V
ùng đồng bằng sông Hồng bao gồm 11 tỉnh và
thành phố như: Vĩnh Phúc, Hà Nội, Bắc Ninh,
Hà Nam, Hưng Yên, Hải Dương, Hải Phòng,
Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình, Quảng Ninh. Vùng
có diện tích tự nhiên là 23.336 km2, dân số năm 2012 là
20,2 triệu người. Diện tích của đồng bằng sông Hồng
chiếm 7,1% diện tích đất của cả nước và dân số chiếm
22,7% dân số của cả nước. Mật độ dân số của vùng
ĐBSH cao gấp 3,58 lần so với cả nước và 1,57 lần so với
vùng có mật độ dân số đứng thứ hai là Đông Nam Bộ.
Những vấn đề đặt ra
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế, lao động là một xu
hướng tất yếu của quá trình phát triển nông thôn
ở nước ta trong giai đoạn hiện nay theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, tăng giá trị sản sản xuất các
sản phẩm hàng hóa trên cơ sở phát huy thế mạnh của
mỗi địa phương, vùng, miền. Giai đoạn vừa qua, sự
chuyển dịch này đã góp phần cải thiện bộ mặt đời sống
nông thôn, nâng cao thu nhập, mức sống, kèm theo đó
là tăng khả năng tiếp cận với các dịch vụ xã hội như y
tế, giáo dục, thông tin, văn hóa… cho người dân.
Bên cạnh những kết quả đạt được, trong phạm vi
bài viết này, tác giả tập trung làm rõ một số những hạn
chế, bất cập trong chuyển dịch cơ cấu lao động ở khu
vực nông thôn của vùng đồng bằng sông Hồng hiện
nay, từ đó đề xuất những chính sách, giải pháp để khắc
phục. Những khó khăn và hạn chế trong chuyển dịch
cơ cấu lao động khu vực nông thôn tại vùng đồng bằng
sông Hồng là:
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế chưa thúc đẩy và tạo
điều kiện để có kết quả chuyển dịch cơ cấu lao động
nông nghiệp, nông thôn tương ứng, chuyển dịch không
đồng đều giữa các vùng và chưa tạo được sự liên kết di
CHUYỂNDỊCH CƠ CẤU LAOĐỘNG KHUVỰC NÔNGTHÔN
VÙNGĐỒNGBẰNG SÔNGHỒNG: MỘT SỐVẤNĐỀ ĐẶT RA
TƯỜNG MẠNH DŨNG
- Đại học Sư phạm Kỹ thu t Hưng Yên
Một trong những tiêu chí xây dựng nông thôn mới đó là thúc đẩy đưa công nghiệp vào
nông thôn, giải quyết việc làm và chuyển dịch nhanh cơ cấu lao động nông thôn. Đây đang
là “bài toán khó” cần lời giải thiết thực của các địa phương hiện nay, trong đó có Vùng
đồng bằng sông Hồng.