Tạp chí Tài chính kỳ 1 số tháng 5-2016 - page 81

TÀI CHÍNH -
Tháng 5/2016
83
ý đến một số vấn đề sau:
Thứ nhất,
tăng cường quản lý thị trường lao động
(cung – cầu), quản lý nguồn nhân lực về đào tạo và
việc làm, hệ thống cập nhật di chuyển, biến động
lao động.
Thứ hai,
đột phá về chính sách tiền lương, trả lương
cao xứng đáng với trình độ chuyên môn nghiệp vụ
của lao động chất lượng cao, phù hợp với giá cả sức
lao động.
Thứ ba,
quan tâm tạo dựng môi trường làm việc,
xây dựng các quy định, văn hóa của DN.
Thứ tư,
đẩy mạnh đào tạo nguồn nhân lực của các
trường đại học, cao đẳng, kết nối cung cầu giữa hệ
thống giáo dục và đào tạo nghề và người sử dụng lao
động. Công tác đào tạo nguồn nhân lực cần phải gắn
kết chặt chẽ với nhu cầu của DN.
Thứ năm,
hoàn thiện hệ thống dự báo nhu cầu
nhân lực và thông tin thị trường lao động của Quốc
gia và các tỉnh, thành phố có khoa học, có hệ thống
tổ chức và phối hợp giữa cơ quan quản lý đào tạo –
việc làm với các đơn vị dịch vụ việc làm, cơ sở đào
tạo nghề, các DN theo hệ thống tiêu chuẩn và định
kỳ thường xuyên….
Thứ sáu,
cân đối nguồn nhân lực hiện nay và các
năm tới. Việc thống kê khả năng đáp ứng của các lĩnh
vực, cân đối thừa, thiếu như thế nào là một yếu tố
quan trọng giúp các cơ sở giáo dục rà soát lại quá trình
cung ứng lao động.
Thứ bảy,
tổ chức hướng nghiệp, định hướng đúng
mức về nghề nghiệp và việc làm, nhằm mục đích tác
động thay đổi sự lựa chọn nghề nghiệp của giới trẻ,
tạo ra sự cân đối nguồn nhân lực giữa các ngành; quan
tâm của hoạt động thông tin trong đó tư vấn hướng
nghiệp là một công đoạn quan trọng, giúp cho học
sinh - sinh viên - người lao động có điều kiện xác định
nghề nghiệp trên cơ sở đánh giá năng lực bản thân và
nắm được định hướng phát triển kinh tế xã hội cũng
như nhu cầu nhân lực của địa phương, đất nước trong
từng thời kỳ.
Thứ tám,
tập trung hoàn thiện và phát triển kỹ năng
nghề nghiệp của người lao đông theo yêu cầu DN;
nâng cao năng lực, tư duy khoa học, độc lập, lao động
sáng tạo; phát huy sáng kiến, áp dụng công nghệ mới
để không ngừng phát triển kỹ năng nghề nghiệp.
mà Việt Namđã và sẽ thamgia, việc phát triển và quản
trị nguồn nhân lực càng trở nên cấp thiết hơn bao giờ
hết. Lao động ngành Dệt may hiện nay chủ yếu tự học,
tự đào tạo theo phương thức kèm cặp trong các nhà
máy xí nghiệp là chính. Chỉ có khoảng 15% lao động
trong Ngành có trình độ từ trung cấp trở lên và tình
trạng thiếu hụt lao động, mà đặc biệt lao động đã qua
đào tạo luôn diễn ra.
Mặt yếu của các DN Việt Nam hiện nay là năng
suất lao động thấp hơn nhiều so với các nước trong
khu vực cũng như các nước trên toàn cầu. chỉ số
năng suất lao động của khu vực sản xuất của Việt
Nam chỉ đạt 2,4, trong khi các quốc gia sản xuất dệt
may lớn khác như Trung Quốc là 6,9 và Indonesia là
5,2. Đây là điểm yếu lớn nhất của dệt may nói riêng
và các ngành sản xuất sử dụng lao động nói chung.
Do vậy, năng suất lao động là yếu tố quan trọng
trong việc quyết định đến giá thành sản phẩm.
Hiện nay, khả năng đáp ứng của cơ sở đào tạo
nhân lực ngành Dệt may không đáp ứng nhu cầu
phát triển của Ngành. Chuỗi cung ứng nhân lực cho
khâu sản xuất may có khá nhiều cơ sở đào tạo nhưng
nhân lực cho khâu sợi, dệt, lụa thì rất ít cơ sở đào
tạo. TP. Hồ Chí Minh - nơi tập trung chủ yếu các cơ
sở đào tạo lao động ngành Dệt may - cũng chỉ có
11 trường đào tạo nhóm ngành Dệt may, bao gồm 4
ngành. Hàng năm, chỉ tuyển sinh và đào tạo khoảng
1.900 lao động (trình độ đại học là 200 người). Con
số này quá ít so với nhu cầu sử dụng của DN. Đặc
biệt, nhân lực thiết kế thời trang được đào tạo tại
Việt Nam hầu hết chỉ có khả năng kinh doanh ở quy
mô nhỏ bằng cách tự mở 1-2 cửa hàng thời trang cho
riêng mình, chưa đủ khả năng thiết kế và triển khai
sản xuất để thương mại hóa với quy mô toàn Ngành.
Nếu không phát triển được nguồn nhân lực, đặc biệt
nhân lực trong khâu thiết kế thời trang thì ngành Dệt
may không thể giải quyết được vấn đề nâng cao giá
trị gia tăng.
Nâng cao chất lượngnguồnnhân lực ngànhDệtmay
Với việc Việt Nam tham gia TPP, đồng thời cộng
đồng kinh tế ASEAN (AEC) ra đời sẽ mở ra nhiều cơ
hội cho lao động Việt Nam với dự báo tăng trưởng
mạnh mẽ việc làm trong các lĩnh vực xây dựng, giao
thông vận tải, dệt may, chế biến thực phẩm… trong
đó, dệt may sẽ trở thành một trong những ngành công
nghiệp mũi nhọn, hướng về xuất khẩu, tạo nhiều việc
làm cho xã hội… Tuy nhiên, cùng với cơ hội từ AEC,
TTP và các FTA mang lại, thì một thách thức không
nhỏ đó là nguồn nhân lực của dệt may đang thiếu
cả về lượng và chất. Vì vậy, để nâng cao chất lượng
nguồn nhân lực của ngành Dệt may Việt Nam cần chú
Dệt may là ngành kinh tế chủ lực, thu hút một
lượng lớn lực lượng lao động trong xã hội, là
ngành có doanh thu xuất khẩu đứng thứ hai chỉ
sau dầu thô. Hiện nay, ngành Dệt may Việt Nam
có khoảng 2,5 triệu lao động, dự kiến đến năm
2025 số lao động sẽ tăng lên 5 triệu.
1...,71,72,73,74,75,76,77,78,79,80 82,83,84,85,86,87,88,89,90,91,...94
Powered by FlippingBook